Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Trích dẫn tài liệu tham khảo

1.     Đôi nét về quá trình nghiên cứu và nạn đạo văn
a. Quá trình nghiên cứu là sự kết hợp của việc đưa ra ý tưởng của riêng mình cộng với việc đưa ra bằng chứng về ý tưởng của những người đi trước.
b. Sự bùng nổ thông tin điện tử, nhất là thông tin trên Internet đã khiến cho việc đạo văn trở nên phổ biến.
c. Thông thường đạo văn là không có chủ ý như trích dẫn thiếu sót, sai quy định. Để tránh mắc lỗi đạo văn, sinh viên phải thực hiện các nguyên tắc và quy trình làm danh mục tham khảo và trích dẫn trong tất cả bài viết tự luận, nghiên cứu.
d. Thế nào là đạo văn:
Đạo văn là mạo nhận tác phẩm/ý tưởng của người khác là của mình, không ghi nhận nguồn gốc của tác phẩm, ý tưởng đó trong tác phẩm của mình.
e. Người viết thường phải đối mặt với việc bị quy kết là đạo văn vì những lý do sau đây:
-  Không có kiến thức về cách trích dẫn và lập danh mục tài liệu trích dẫn/tài liệu tham khảo;
-  Không có kiến thức về các kỹ năng học tập, nghiên cứu, tóm tắt, diễn giải và phân tích có phê phán;
-  Không có kỹ năng phân tích đề bài;
-  Không có kỹ năng nghiên cứu, nhất là trên môi trường trực tuyến;
-  Thiếu hiểu biết về cách trích dẫn tài liệu trực tuyến, cho rằng đây là tài liệu “công cộng”, không cần phải ghi nhận sự đóng góp của họ trong bài viết của mình.
2. Các bước trong quá trình nghiên cu và trích dn
a. Xác định nguồn tin;
b. Đọc lướt để tìm những điểm nhấn, những ý tưởng quan trọng;
c. Tóm tắt và/hoặc diễn giải thông tin hoặc chép lại chính xác đoạn văn;
d. Ghi lại những ý tưởng (chính xác hoặc diễn giải) đó cộng với thông tin về nguồn tin, ví dụ tác giả, ngày tháng xuất bản, nhan đề, nơi xuất bản, nhà xuất bản;
e. Duy trì, phát triển và quản lý danh sách những tài liệu tham khảo;
f. Tổng hợp các ý tưởng trong bài viết, bao gồm những thông tin cần thiết về nguồn trích dẫn mà bạn sử dụng bằng kiểu trích dẫn phù hợp với yêu cầu;
g. Ghi nhận ý tưởng, kiến thức của những người mà mình đã sử dụng trong bài viết;
h. Tập hợp và mô tả thông tin đầy đủ về các tài liệu mà bạn đã trích dẫn, tham khảo trong một danh mục, sử dụng kiểu danh mục phù hợp.
3. Thế o là trích dn tài liu?
a. Trích dẫn tài liệu là phương pháp được chuẩn hóa trong việc ghi nhận những nguồn tin và ý tưởng mà người viết đã sử dụng trong bài viết của mình trong đó người đọc có thể xác định rõ từng tài liệu được trích dẫn, tham khảo. Các trích dẫn nguyên văn, các số liệu và thực tế, cũng như các ý tưởng và lý thuyết lấy từ các nguồn đã được xuất bản hoặc chưa được xuất bản đều cần phải được trích dẫn.
b. Có hàng ngàn kiểu trích dẫn được chấp nhận trên thế giới. Tài liệu này hướng dẫn kiểu trích dẫn Chicago là kiểu phổ biến trong trường đại học. Tài liệu chỉ mang tính tham khảo chứ không bắt buộc sử dụng.
4. Tm quan trng ca vic trích dn tài liu
a. Cho thấy sự tôn trọng và ghi nhận của bạn đối với sản phẩm trí tuệ/tác phẩm của người khác;
b. Cho thấy bài viết của bạn là đáng tin cậy vì dựa trên những luận cứ của những người đi trước;
c. Chứng minh cho giảng viên/người đọc thấy rằng bạn đã đọc và xem xét vấn đề dựa trên những tài liệu phù hợp;
d. Cho phép người đọc có thể xác nhận tính đúng đắn của những thông tin mà bạn trích dẫn và đọc thêm về những vấn đề/luận điểm cụ thể mà bạn đã nêu ra;
e. Tuân theo những tiêu chuẩn của việc viết nghiên cứu/hàn lâm;
f. Tránh việc đạo văn.
5.  Khi nào cần trích dẫn nguồn tin?
Tất cả các loại tài liệu bạn sử dụng trong quá trình xây dựng nên bài viết của mình cần phải được trích dẫn: sách, báo và tạp chí, ấn phẩm in và ấn phẩm điện tử, ấn phẩm của các cơ quan chính phủ, các phương tiện truyền thông như video, DVD, băng ghi âm, trang web, các bài giảng, các mẫu đối thoại cá nhân như email…
Trong bài viết/tác phẩm của mình, khi sử dụng từ ngữ, ý tưởng, hoặc tác phẩm của bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào, bạn đều phải cung cấp thông tin trích dẫn đến nguồn tin.
6. Phát triển kỹ năng trích dẫn tài liệu
a. Trong quá trình chuẩn bị cho bài viết, bạn phải đọc nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Để tránh đạo văn, cần ghi chú chính xác và chi tiết những nguồn tin, tài liệu mà bạn đã sử dụng trong bài
b. Phải trích dẫn chính xác và chỉ theo một kiểu trích dẫn trong suốt bài viết. Nên luyện tập thường xuyên để tạo thói quen và nâng cao kỹ năng làm trích dẫn khi viết bài.
7. Quy trình trích dn và lp danh mc tài liu tham kho
a. Ghi lại một cách chi tiết và chính xác các thông tin cơ bản về tài liệu/nguồn tin gồm có:
• Sách: tác giả, người biên tập, biên soạn; năm xuất bản; tên sách; lần xuất bản; số tập; nơi xuất bản; nhà xuất bản. Chú ý ghi lại cả số trang có thông tin đã sử dụng.
• Bài viết từ tạp chí chuyên ngành (journal): tác giả bài viết; năm xuất bản; tên bài viết; tên tạp chí; số và tập của tạp chí đó; trang của bài viết.
• Bài viết từ báo, tạp chí phổ thông (magazine, newspaper) : tác giả bài viết; ngày tháng năm phát hành; tên bài viết; tên báo; trang của bài viết.
• Thông tin trên Internet: ngoài những thông tin giống như trên, cần ghi lại ngày truy cập tài liệu này trên mạng, tên cơ sở dữ liệu hoặc địa chỉ web (URL).
b. Chèn thông tin trích dẫn vào vị trí phù hợp trong câu/đoạn/bài viết.
c. Cung cấp danh mục tài liệu trích dẫn/tài liệu tham khảo ở cuối bài viết.
8. Trích dẫn trong bài
Trích dẫn trong bài là chỉ ra khi nào bạn đã sử dụng ý tưởng/kiến thức của người khác trong bài viết của mình
Có ba cách trích dẫn trong bài:
• Trích dẫn nguyên văn (quote): sao chép chính xác từ ngữ, câu, đoạn văn mà tác giả dùng. Câu trích dẫn nguyên văn phải được để trong dấu ngoặc kép. Trường hợp này bắt buộc phải ghi cả số trang của nguồn trích.
Ví dụ:
... Không như cách chào hỏi mang tính hình thức của nhiều dân tộc khác, người Việt phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm(Trần Ngọc Thêm 1998, 67)
• Trích dẫn diễn giải (paraphrase): diễn giải câu chữ của tác giả khác bằng câu chữ của mình, sử dụng từ ngữ khác mà không làm khác đi nghĩa nguyên gốc. Khi trích dẫn kiểu diễn giải thì không bắt buộc phải ghi số trang. Tuy nhiên việc ghi số trang là cần thiết, nhất là khi trích dẫn từ sách hoặc từ một tài liệu dài để người đọc có thể dễ dàng xác định thông tin mình cần.
Ví dụ từ câu gốc: “người Việt phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm
Dẫn giải lại: Người Việt có những cách chào khác nhau tùy vào mối quan hệ hoặc tình cảm giữa người chào và người được chào (Trần Ngọc Thêm 1998, 67)
• Tóm tắt ý tưởng (summarise): Là diễn tả lại ý tưởng của đoạn văn gốc thành câu ngắn gọn hơn. Khi tóm tắt ý tưởng của người khác vẫn phải nêu tên tác giả, nếu không cũng bị xem là đạo văn. Một số cụm từ thường dùng:
• X phát biểu/nêu rõ rằng…
• X chỉ ra rằng …
• X lưu ý …
• Theo X…
9. Phân biệt danh mc tài liu trích dn & tài liu tham kho
• Danh mục tài liệu trích dẫn (References hoặc Citations) gồm các tài liệu đã được trích dẫn trong bài viết.
• Danh mục tài liệu tham khảo (Bibliography) gồm các tài liệu được trích dẫnvà các tài liệu không được trích dẫn trong bài viết nhưng được tác giả tham khảo trong quá trình hoàn thành bài viết và những tài liệu mà tác giả cho rằng có thể hữu ích với người đọc.
10. Những quy tắc chung khi lập danh mục tham khảo
Tài liệu tham khảo được tập hợp trong một danh mục. Để dễ tìm kiếm nên xếp tài liệu theo từng ngôn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung, Nhật...),
Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải giữ nguyên văn, không phiên âm, không dịch, kể cả tài liệu bằng tiếng Trung Quốc, Nhật ...
Tài liệu được xếp theo thứ tự ABC họ của tác giả (với tác giả nước ngoài) hoặc tên của tác giả (với tác giả Việt Nam)
Tác giả cá nhân:
-          Tác giả nước ngoài: ghi Họ, Tên với tác giả thứ nhất (vd: Anderson, Smith) và Tên Họ với các tác giả tiếp theo (vd: Richard Will)
-          Tác giả Việt Nam: ghi Họ Tên không có dấu phẩy (vd: Nguyễn Văn An) cho tất cả tác giả.
Tác giả tập thể (nếu tài liệu không có tác giả cá nhân):
Ví dụ: tác giả là Tổng cục Thống kê xếp vào phần TBộ Giáo dục và Đào tạo xếp vào phần B. Nếu tổ chức  có tên viết tắt thông dụng, có thể dùng từ viết tắt. Ví dụ:ILO (International Labor Organisation)
Tài liệu không có tác giả thì xếp theo vần chữ cái của nhan đề tài liệu (với tài liệu tiếng nước ngoài thì loại bỏ các mạo từ ở đầu nhan đề như the, an, a, des, un, une, …) 
Nếu thông tin về một tài liệu dài hơn một dòng thì nên trình bày sao cho từ dòng thứ hai lùi vào so với dòng thứ nhất 1 cm để phần tài liệu tham khảo được rõ ràng và dễ theo dõi.
Luôn tuân thủ các quy định về hình thức như dấu chấm câu, chữ in nghiêng (đối với tên sách, tên tạp chí), ngoặc kép (đối với tên bài tạp chí, bài hội thảo, luận văn)… để đảm bảo tính thống nhất của danh mục.
11. Cách trích dẫn và lập danh mục theo chuẩn Chicago
Hiện nay có nhiều chuẩn danh mục như APA (áp dụng cho các ngành tâm lý học, giáo dục, khoa học xã hội), MLA (văn học, nghệ thuật, nhân văn), Chicago (áp dụng cho tất cả các ngành và các hình thức tài liệu khác nhau). SV có thể tùy chọn để sử dụng theo yêu cầu của đề tài hoặc GV, nhưng lưu ý mỗi bài nghiên cứu chỉ nên sử dụng một chuẩn để đảm bảo tính thống nhất và khoa học. Tài liệu này hướng dẫn lập danh mục theo chuẩn Chicago là một chuẩn khá phổ biến và dễ sử dụng cho bậc đại học.
Chuẩn Chicago quy định cách trình bày danh mục tham khảo của các loại tài liệu theo 2 hệ thống: Ghi chú-Danh mục (Notes-Bibliography) dành cho tài liệu các ngành văn, sử, nghệ thuật; và Tác giả-Năm XB (Author-Date) dành cho tài liệu các ngành khoa học tự nhiên và xã hội. Sau đây là hướng dẫn cách lập danh mục theo hệ thống Author-Date.
Sách
-          Dòng 1: mẫu ghi trong Danh mục Tham khảo
-          Dòng 2: mẫu ghi trích dẫn trong bài
Một tác giả:
Pollan, Michael. 2006. The Omnivore’s Dilemma: A Natural History of Four Meals. New York: Penguin.
             (Pollan 2006, 99–100)
             Lê Văn Tề. 2009. Thị trường tài chính. TP. HCM: Giao thông vận tải.
             (Lê Văn Tề 2009, 56)
Hai, ba tác giả:
Ward, Geoffrey C., and Ken Burns. 2007. The War: An Intimate History,1941–1945. New York: Knopf.
(Ward and Burns 2007, 52)
Nguyễn Công Bình, Đặng Kim Cương. 2009. Phân tích các báo cáo tài chính. Tp. Hồ Chí Minh: Giao thông Vận tải.
              (Nguyễn Công Bình và Đặng Kim Cương 2009, 127)
Bốn tác giả trở lên: liệt kê tất cả tác giả vào danh mục tham khảo; còn tại trích dẫn trong bài, chỉ ghi tên tác giả đầu, và chữ et al. (hoặc và những người khác với tài liệu tiếng Việt)
Barnes, Dana, Sidney Levy, Joyce Heatherton, Jackson Hsu, and James Carley. 2010. Plastics: Essays on American Corporate Ascendance in the 1960’s. Toronto: Penguin.
(Barnes et al. 2010, 22-25)
(Nguyễn Bá Thi và những người khác  2007, 55)
Chủ bút, chủ biên, người dịch; không có tác giả: Ghi tên chủ bút, chủ biên, người dịch
Lattimore, Richmond, trans. 1951. The Iliad of Homer. Chicago: University of Chicago Press.
(Lattimore 1951, 91–92)
Lê Văn Cát, chủ biên. 2009. Cơ sở khoa học trong công nghệ bảo vệ môi trường. T.III, Các quá trình hóa học trong công nghệ môi trường. Hà Nội : Giáo dục.
(Lê Văn Cát 2009, 125)
Chủ bút, chủ biên, người dịch; có tác giả: Ghi tên tác giả
García Márquez, Gabriel. 1988. Love in the Time of Cholera. Translated by Edith Grossman. London: Cape.
(García Márquez 1988, 242–55)
Apitz, Bruno. 2004. Trần trụi giữa bầy sói. Xuân Oanh, Hoàng Tố Vân dịch. Tp.HCM: Văn học.
(Apitz 2004, 156)
Chương phần của cuốn sách: Ghi tên chương, phần
             Kelly, John D. 2010. “Seeing Red: Mao Fetishism, Pax Americana, and the Moral Economy of War.” In
             Anthropology and Global Counterinsurgency, edited by John D. Kelly, Beatrice Jauregui, Sean T.
             Mitchell, and   Jeremy Walton, 67–83. Chicago: University of Chicago Press.
             (Kelly 2010, 77)
Trích từ lời giới thiệu, trang dẫn nhập của sách:
Rieger, James. 1982. Introduction to Frankenstein; or, The Modern Prometheus, by Mary Wollstonecraft Shelley, xi–xxxvii. Chicago: University of Chicago Press.
(Rieger 1982, xx–xxi)
Sách điện tử
Nếu sách có nhiều phiên bản, ghi theo phiên bản đã sử dụng.
Nếu là sách lấy trên Internet, ghi địa chỉ website và ngày truy cập nếu cần.
Nếu không xác định được số trang thì ghi tên chương phần của sách.
Austen, Jane. 2007. Pride and Prejudice. New York: Penguin Classics. Kindle edition.
Kurland, Philip B., and Ralph Lerner, eds. 1987. The Founders’ Constitution. Chicago: University of Chicago Press. http://press-pubs.uchicago.edu/founders/.
(Austen 2007)
(Kurland and Lerner, chap. 10, doc. 19)
Bài tạp chí
Bài tạp chí in
Tại trích dẫn trong bài, chỉ ghi trang có đoạn trích dẫn; tại danh mục tham khảo, ghi số trang của toàn bài tạp chí.
Weinstein, Joshua I. 2009. “The Market in Plato’s Republic.” Classical Philology 104:439–58.
(Weinstein 2009, 440)
Bài tạp chí điện tử
Ghi mã số DOI (Digital Object Identifier) nếu có, DOI là mã số truy cập của bài tạp chí trên Internet. Trường hợp không có DOI thì phải ghi địa chỉ website, có thể ghi ngày truy cập nếu cần.
Kossinets, Gueorgi, and Duncan J. Watts. 2009. “Origins of Homophily in an Evolving Social Network.” American Journal of Sociology 115:405–50. Accessed February 28, 2010. doi:10.1086/599247.
(Kossinets and Watts 2009, 411)
Bài trên nhật báo
Mẫu danh mục bài báo in giống như bài tạp chí. Với bài báo điện tử thì ghi thêm địa chỉ website và ngày truy cập nếu cần. Với bài báo không có tên tác giả thì ghi tên bài báo.
Mendelsohn, Daniel. 2010. “But Enough about Me.” New Yorker, January 25.
(Mendelsohn 2010, 68)
Stolberg, Sheryl Gay, and Robert Pear. 2010. “Wary Centrists Posing Challenge in Health Care Vote.” New York Times, February 27. Accessed February 28, 2010.http://www.nytimes.com/2010/02/28/us/politics/28health.html.
 (Stolberg and Pear 2010)
Điểm sách
Kamp, David. 2006. “Deconstructing Dinner.” Review of The Omnivore’s Dilemma: A Natural History of Four Meals, by Michael Pollan. New York Times, April 23, Sunday Book Review.http://www.nytimes.com/2006/04/23/books/review/23kamp.html.
(Kamp 2006)
Luận văn, luận án
Choi, Mihwa. 2008. “Contesting Imaginaires in Death Rituals during the Northern Song Dynasty.” Luận án tiến sĩ, University of Chicago.
(Choi 2008)
Tham luận hội nghị
Adelman, Rachel. 2009. “ ‘Such Stuff as Dreams Are Made On’: God’s Footstool in the Aramaic Targumim and Midrashic Tradition.” Tham luận trình bày tại hội nghị thường niên của the Society of Biblical Literature, New Orleans, Louisiana, ngày 21–24/11.
(Adelman 2009)
Website
Nội dung trang web thường xuyên thay đổi nên khi trích dẫn phải ghi rõ thời gian thông tin được truy cập, hoặc được đăng nếu có.
Google. 2009. “Google Privacy Policy.” Cập nhật ngày 11/03.http://www.google.com/intl/en/privacypolicy.html.
(Google 2009)
McDonald’s Corporation. 2008. “McDonald’s Happy Meal Toy Safety Facts.” Truy cập ngày 19/07.http://www.mcdonalds.com/corp/about/factsheets.html.
 (McDonald’s 2008)
Bài trên cơ sở dữ liệu
Đưa tên của CSDL và mã số truy cập của tài liệu.
Choi, Mihwa. 2008. “Contesting Imaginaires in Death Rituals during the Northern Song Dynasty.” PhD diss., University of Chicago. ProQuest (AAT 3300426).
(Choi 2008)

Tài liệu được biên soạn lại từ nguồn:
Trung tâm Thông tin Phát triển Việt Nam: http://www.vdic.org.vn/
The Chicago Manual of Style 16th edition: http://www.chicagomanualofstyle.org/

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

Bài về CNC - lưu từ trang dan trí

Kiếm tiền từ Google, dễ trở thành đối tượng của lừa đảo




Hiện nay, tuy chưa có con số thống kê cụ thể nhưng có rất nhiều người đang hàng ngày hàng giờ kiếm tiền trên mạng từ tài khoản Google Adsense. Khi giao dịch bùng phát, các đối tượng phạm tội đã “nhắm” tới kẽ hở giữa người bán và người mua để lừa đảo.

Đối tượng Vương Trọng Sơn bị bắt giữ vì có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài khoản Google Adsense
Theo Thượng tá Ngô Minh An, Phó trưởng Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công an TP Hà Nội cho biết đây là thủ đoạn phạm tội mới của tội phạm công nghệ cao. 
GOOGLE ADSENSE LÀ GÌ? 
Với nhiều người, Google Adsense hẳn là một khái niệm xa lạ, nhưng với cộng đồng mạng, đặc biệt là những người ham mê kiếm tiền trên mạng thì nó là một “công cụ” hữu ích sinh lợi nhuận. Google Adsense thực chất là một dịch vụ quảng cáo của Google; ở hình thức quảng cáo này Google đóng vai trò làm trung gian giữa những doanh nghiệp, cá nhân… muốn quảng cáo và những webstie cho phép hiển thị quảng cáo.
Những ai muốn quảng cáo sản phẩm, thương hiệu của mình trên website người khác thông qua một banner quảng cáo thì sẽ tiến hành đăng ký với Google. Tương tự, những website nào cho phép đặt những banner quảng cáo này thì cũng tiến hành đăng ký với Google, và công việc của Google là điều phối những mẫu quảng cáo này sao cho phù hợp với nội dung trang web, vị trí địa lý, ngôn ngữ và nhiều yếu tố khác…
Dĩ nhiên những doanh nghiệp, cá nhân muốn quảng cáo sẽ phải trả cho Google một khoản tiền, và Google sẽ dùng số tiền này để trả cho những website đã cho phép họ hiển thị nội dung quảng cáo. Google Adsense sẽ tạo ra lợi nhuận cho những webmaster cho phép đặt quảng cáo trên website của họ dựa trên nguyên tắc tính tiền cho mỗi cú click chuột vào quảng cáo Google Adsense trên website của webmaster ấy.
Hình thức quảng cáo Google Adsense này được Google đưa ra vào năm 2003, đến nay đã có hàng tỷ website tham gia vào mạng lưới quảng cáo rộng lớn này của Google. Và Google AdSense đang là cách kiếm tiền hiệu quả của rất nhiều webmaster trên toàn thế giới. Dĩ nhiên, ở thị trường Việt Nam Google Adsense cũng không phải dạng ngoại lệ, khi việc mua bán những tài khoản Google Adsense cũng trở nên khá nhộn nhịp.
Chỉ cần truy cập vào website Google gõ cụm từ “kiếm tiền trên mạng” thì Google Adsense sẽ chiếm một vị trí “danh dự” không thể bàn cãi, và ở đó người ta hỏi - đáp - hướng dẫn rất tỉ mỉ việc làm thế nào để có được một tài khoản Google Adsense? Bằng cách nào để kiếm được nhiều tiền nhất từ Google Adsense? Làm sao để có thể mua được một tài khoản Google Adsense?...
CÁI KHÓ LÓ... TỘI PHẠM
Thật vậy, muốn kiếm tiền từ Google Adsense không hề dễ và không phải ai cũng có thể kiếm được. Theo những người đã từng kiếm tiền nhờ Google Adsense chia sẻ thì ở Việt Nam những địa chỉ được Google Adsense trả nhiều tiền nhất là các trang báo điện tử, trang thông tin tổng hợp…; các cá nhân là những người viết blog (blogger) nổi tiếng, có mối liên kết trong cộng đồng mạng rộng, được nhiều người quan tâm và những người quản trị website (webmaster)… Số tiền thu về tùy theo độ “hot” của trang báo điện tử, trang thông tin tổng hợp hay của cá nhân với mức thấp nhất cũng lên đến vài nghìn USD/tháng.
Nhưng để có “miếng bánh” ai cũng muốn sở hữu, thu lợi được những khoản tiền lớn như vậy thật sự là khó khăn và trải qua các bước không hề đơn giản. Đầu tiên là đăng ký để trở thành đối tác quảng cáo cho Google để có một tài khoản Google Adsense phải đáp ứng những quy tắc khắt khe của Google như: Các cá nhân phải có một “địa chỉ” bolg/website có số lượng người truy cập ổn định và đủ lớn; có người quản lý nội dung, cập nhật thông tin; nội dung không được “cut, copy & paste” từ những website khác… Sau khi đáp ứng đủ những yêu cầu do Google đưa ra, chủ website sẽ tạo một tài khoản đăng ký trực tuyến và chờ đợi…
Lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra, một là không bao giờ (Never) hoặc ít nhất là 3 tháng để Google xác nhận xem có cấp tài khoản Google Adsense cho chủ website đó hay không. Cũng chính vì tiêu chí xét duyệt nghiêm ngặt dẫn đến việc đăng ký tài khoản Google Adsense không hề đơn giản, mà “miếng bánh ngon” đâu dễ gì từ bỏ nên không ít cá nhân, doanh nghiệp phải “lách” qua khe cửa hẹp là bỏ tiền mua lại tài khoản của người khác. Và trong “giao dịch” này đã tạo kẽ hở cho đối tượng phạm tội hoạt động.
Nếu người mua không cẩn thận tìm hiểu và tính toán kỹ trong giao dịch, sau khi chuyển tiền, người bán có thể sử dụng các phương thức khôi phục mật khẩu để “đoạt” lại tài khoản Google Adsense từ tay người mua. Ngược lại, cũng không ít trường hợp đã xảy ra là người mua lừa rồi “cướp trắng” tài khoản Google Adsense từ người bán.
LỪA ĐẢO, CHIẾM ĐOẠT TÀI KHOẢN XUẤT HIỆN
Thực tế, trên nhiều diễn đàn đã cảnh báo về việc mua - bán tài khoản Google Adsense, song vẫn có khá nhiều “con mồi” gồm cả người bán lẫn người mua đều “sập bẫy”. Mới đây, ngày 11-8-2015, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công an TP Hà Nội đã điều tra làm rõ đối tượng có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài khoản Google Adsense.
Đóng vai khách cần mua tài khoản Google Adsense, đối tượng phạm tội đã truy cập máy tính để chiếm quyền quản trị tài khoản, sau đó bán cho người khác. Đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản là Vương Trọng Sơn (SN 1990), quê ở Yên Thành, Nghệ An; trú tại phường Phúc La, quận Hà Đông, TP Hà Nội.
Căn cứ kết quả xác minh, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã bàn giao vụ án cho Cơ quan CSĐT - Công an TP Hà Nội tiếp tục điều tra, xử lý theo thẩm quyền. Đi sâu xác minh, các trinh sát xác định, đối tượng gây án thường sử dụng mạng xã hội để giao dịch với người rao bán tài khoản Google Adsense. Lấy lý do kiểm tra thông tin tài khoản, đối tượng lừa đảo sẽ sử dụng phần mềm truy cập máy tính từ xa qua mạng Internet (có tên Team Viewer) để chiếm đoạt quyền quản trị tài khoản, sau đó bán lại cho người khác.
Cơ quan công an xác định, cuối tháng 4-2015, thông qua Facebook, Vương Trọng Sơn liên hệ mua lại tài khoản Google Adsense của anh L.V.G (SN 1990), ở Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội với giá 13 triệu đồng. Quá trình giao dịch, Vương Trọng Sơn đề nghị sử dụng phần mềm Team Viewer truy cập vào máy tính của anh L.V.G để xem thông tin tài khoản.
Từ đây, đối tượng đã khóa máy tính của bị hại, đồng thời gỡ bỏ E-mail quản trị tài khoản Google Adsense và thay thế bằng E-mail của mình. Sau đó, Vương Trọng Sơn bán tài khoản này cho một người đàn ông tên P. ở TP.HCM với giá 13 triệu đồng. Một thời gian sau, thấy anh P. không thay đổi E-mail quản trị, Vương Trọng Sơn đã chiếm lại tài khoản để bán cho một người khác với giá 6 triệu đồng.
Theo Thượng tá Ngô Minh An, Phó trưởng Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công an TP Hà Nội thì Vương Trọng Sơn hiện đang công tác tại một công ty viễn thông. Với những kiến thức về công nghệ thông tin, Sơn thường lập các website hướng dẫn các thủ thuật về mạng máy tính; website đăng tải các clip “hot” được nhiều người truy cập. Từ các website này, Sơn đăng ký được tài khoản Google Adsense.
Cũng qua việc tham gia vào các nhóm (Group) trên mạng xã hội, các diễn đàn tin học… Sơn biết được nhu cầu mua bán các tài khoản Google Adsense, đồng thời cũng biết được cách thức chiếm đoạt các tài khoản Google Adsense bằng việc sử dụng phần mềm Team Viewer. Sau khi tìm hiểu Sơn đã lập được một tài khoản tên “Shaiya50” và “chuyendungsony” để thực hiện hành vi phạm tội.
Là một kẻ lọc lõi trong những giao dịch trên Internet, tất cả người mua, người bán, người nhờ tư vấn để lập tài khoản, sửa lỗi… đều bị Vương Trọng Sơn lừa đảo, chiếm đoạt.
RỦI RO CAO, MẤT NHIỀU HƠN ĐƯỢC
Thượng tá Ngô Minh An cho biết, đây là thủ đoạn phạm tội mới của tội phạm công nghệ cao. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên nhiều bị hại bị mất tài khoản hoặc bị chiếm đoạt tiền đã không trình báo. Cơ quan công an khuyến cáo, người sử dụng Internet cần cảnh giác trước các phần mềm truy cập máy tính từ xa. Tuyệt đối không để các đối tượng lạ sử dụng Team Viewer hoặc các phần mềm tương tự truy cập vào máy tính để chiếm quyền điều hành, lấy cắp thông tin cá nhân.
Và một câu hỏi được đông đảo người “kiếm tiền trên mạng” quan tâm là: “Có nên mua tài khoản Google Adsense hay không?”. Mẫu số chung cho câu hỏi trên là: Tại sao lại bỏ nhiều tiền để mua tài khoản Google Adsense của một người khác? Mua tài khoản Adsense để đặt quảng cáo lên trang web của mình là điều hoàn toàn không nên, trong khi thứ sở hữu được lại là một tài khoản Adsense “second hand”.
Bởi trên việc mua tài khoản Adsense của người khác tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và có khả năng mất tài khoản bất cứ lúc nào. Bởi vì nếu không cẩn thận trong việc giao dịch, người bán hoàn toàn có thể sử dụng các phương thức khôi phục mật khẩu để lấy lại tài khoản Adsense.
Tài khoản Adsense được đăng nhập bằng Gmail, và có rất nhiều cách để khôi phục mật khẩu Gmail như qua Email dự phòng, qua điện thoại, trả lời câu hỏi bí mật… Ngoài ra, đa số những người mua tài khoản Adsense là những người không thể đăng ký được Google Adsense bằng chính blog/website của mình. Điều đó chứng tỏ, website của họ chưa đáp ứng được các yêu cầu mà Google đặt ra.
Nhưng cũng đừng vì thế mà vội vàng tìm đến những lời quảng cáo, mời gọi “một bước lên tiên”, “kiếm tiền hàng khủng”… từ những người bán tài khoản Adsense. Và không loại trừ khả năng trong giao dịch ấy, kể cả người bán lẫn người mua vì mải mê nghĩ về “miếng bánh ngon” mà “sập bẫy” của các đối tượng phạm tội nhằm lừa đảo, chiếm đoạt cả tiền lẫn tài khoản Google Adsense.