Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2022

Loay hoay đi tìm cách viết khái niệm

 (Theo Chungta.com)

Góp phần tìm hiểu các khái niệm sự vật và thuộc tính

08:53 SA @ Thứ Ba - 14 Tháng Mười Một, 2006
Trong hệ thống các khái niệm của phép biện chứng duy vật, mỗi khái niệm có một vị trí xác định. Nếu các khái niệm của khoa học này được sắp xếp theo thứ tự từ rộng đến hẹp, thì vị trí đầu tiên là khái niệm vật chất và kế tiếp theo sẽ là hai khái niệm sự vật và thuộc tính: bởi vì trong hiện thực khách quan không có cái gì khác ngoài các sự vật và các thuộc tính (tính quy định) của chúng. Sự vật và thuộc tính là hai khái niệm cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh mọi đối tượng có trong hiện thực khách quan. Với mức độ bao quát đó chúng đã được sử dụng trong các định nghĩa về các khái niệm cơ bản khác như cái riêng cái chung, hiện tượng, bản chất, quy luật mâu thuẫn... Mặc dù vậy,bản thân hai khái niệm này lại ít được nghiên cứu thậm chí chưa được định nghĩa một cách rõ ràng.

Như chúng ta đã biết: trong các sách giáo khoa về phép biện chứng duy vật không có định nghĩa nào về sự vật và thuộc tính. Khi tìm hiểu hai khái niệm này, chúng ta thường căn cứ vào các định nghĩa sau đây được trình bày trong một số từ điển: sự vật là "cái tồn tại được nhận thức có ranh giới rõ ràng phân biệt với những cái xảy ra khác": thuộc tính là "đặc tính vốn có của sự vật nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận thức được sự vật phân biệt được sự vật này với sù vật khác" là "tinh chất không thể tách rời của sự vật”, là "đặc tính, đặc điểm đánh dấu sự tồn tại của một sự vật". Tuy nhiên, những định nghĩa này lại đang còn tương đối sơ lược và chưa đáp ứng được yêu cầu của phép định nghĩa khái niệm.

Thực vậttheo yêu cầu của phép định nghĩa khái niệm trong định nghĩa khái niệm A bất kỳ nào đó ( trừ khái niệm vật chất), người ta phải quy nó vào một khái niệm B rộng hơn sau đó phải nêu ra được những dấu hiệu chỉ có ở những đối tượng thuộc A để phân biệt với những đối tượng cũng thuộc B nhưng không thuộc A. Chẳng hạn, ở định nghĩa "hình chữ nhật là hình bình hành cógóc vuông”, người ta đã quy khái niệm "hình chữ nhật” (A) vào khái niệm "hình bình hành" (B), đồng thời đã nêu ra được dấu hiệu phân biệt "hình chữ nhật" với ‘hình bình hành nhưng không phải là hình chữ nhật" (dấu hiệu này là có 1 góc vuông).Đối chiếu với yêu cầu của phép định nghĩa khái niệm, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong ba định nghĩa về thuộc tính ở trên, các tác giả đã không quy khái niệm thuộc tính vào khái niệm rộng hơn (chỉ có khái niệm vật chất mới rộng hơn khái niệm thuộc tinh), mà quy vào các khái niệm hẹp hơn là tính chất, đặc tính, đặc điểm. Giống như mọi khái niệm khác, hai khái niệm sự vật và thuộc tính có ngoại diên xác định của mình. Ngoại diên của khái niệm thuộc tính gồm vô số đối tượng có chung những dấu hiệu nào đó và nhờ đó đều được gọi là thuộc tính. Ngoại diên của khái niệm sù vật cũng gồm vô số đối tượng có chung những dấu hiệu nào đó và nhờ đó đều được gọi là sự vật. Các đối tượng thuộc ngoại diên của hai khái niệm này ngoài dấu hiệu chung là tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của con người, còn có một số dấu hiệu liêng mà nhờ đó chúng ta có thể xác định được một đối lượng là sự vật chứ không phải là thuộc tính và ngược lại. Những dấu hiệu riêng này cần được nêu ra trong các định nghĩa về sự vát và thuộc tính. Song, các định nghĩa ở trên lại chưa nêu ra được những dấu hiệu riêng như vậy. Nếu cho rằng "sự vật là cái tồn tại được nhận thức rõ ràng phân biệt với những cái xảy ra khác" thì cũng có thể cho rằng "thuộc tính là cái tồn tại được nhận thức rõ ràng phân biệt với những cái xảy ra khác” tức là có thể coi được nhận thức rõ ràng, phân biệt với những cái xảy ra khác là một dấu hiệu chung của cả những đối tượng được gọi là thuộc tính và những đối tượng được gọi là sự vật.

Có tác giả cho rằng:"Sự vật đặc trưng chủ yếu cho mặt gián đoạn, ngắt quãng, tách biệt, còn thuộc tính thiên về biểu đạt mặt liêntục, nối tiếp ràngbuộc của vật chất. Có thể coi sự vật là “điểm" hay “mắt lưới",còn thuộc tính là "diện "hay "mạng lưới"trong cùng một “bức tranh chung" về hiện thực khách quan". Ở định nghĩa này,tác giả tuy đã xem xét hai khái niệm sù vật và thuộc tính trong mối quan hệ không tách rời nhau nhưng chỉ mới đề cập bước đầu đến sù khác nhau giữa hai khái niệm ấy. Do vậy định nghĩa đó cũng chưa phải là một định nghĩa hoàn chỉnh.

Định nghĩa về sử vật và thuộc tính là một vấn đề phức tạp. Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thật sụ rõ ràng và được thống nhất thừa nhận. Trong khi chờ đợi có được định nghĩa như thế chúng ta có thể và cần phải xác định được những đối tượng thuộc ngoại diên qua khái niệm sự vật và những đối tượng thuộc ngoại diên của khái niệm thuộc tính.

Thông thường, để bảo đảm tính rõ ràng của tư tưởng trước khi sử dụng một khái niệm A nào đó, người ta phai trả lời được câu hỏi "A là gì”? Tuy nhiên, nếu như đã trả lời được câu hỏi những cái gì là A? thì trong một số trường hợp người ta có thể tạm thờichưa cần trả lời câu hỏi Alà gì"? Chẳng hạn, khi sử dụng 10 khái niệm (được gọi là 10 phạm trù) là thực thể số lượng, chất lượng, quan hệ, vị trí, thời gian, tư thế, sở hữu, hoạt động, thụ động. Arixtốt không trả lời các câu hỏi thực thể là gì? chất lượng là gì?... thay vào đó ông đã trả lời các câu hỏi "cái gì là thực thể”? "cái gì là chất lượng”? ( theo ông thực thể ví dụ là người, ngựa… chất lượng ví dụ là trắng, đen...). Hoặc khi sử dụng khái niệm số tự nhiên, người ta cũng có thể tạm thời chưa trả lời câu hỏi "số tự nhiên là gì ?" vì đã trả lời được câu hỏi "những số nào là số tự nhiên?" (số tủ nhiên ví dụ là các số: 1, 2,3...).

Tương tự như vậy, để bảo đảm tính rõ ràng của tư tưởng khi sử dụng các khái niệm sự vật và thuộc tính trong điều kiện câu hỏi sự vật và thuộc tính là gì? chưa được trá lời một cách rõ ràng thì chúng ta cần phải trả lời được câu hỏi "những cái gì là sự vật và thuộc tính?". Phương pháp trả lời câu hỏi nào là tìm trong các mệnh đề, trước hết là trong các mệnh đề đơn giản, những từ chỉ sự vật và những từ chỉ thuộc tính. Bởi vì sự vật và độc tính là hai khái niệm cơ bản của phép biến chứng trong bất cứ mệnh đề nào chúng cũng đều được biểu đạt bởi những từ nào đó và do đó thông qua phân tích các mệnh đề, chúng ta có thể tìm ra những ví dụ về hai khái niệm này.Phương pháp phân tích các mệnh đề đề tìm ra các yếu tố của phép biện chứng đã được Lênin chỉ ra như sau: trong bất cứmệnh đề nào, cũng có thể (và phải) tìm ragiống như trong một "cái ngàn tổ ong" (tế bào), những mầmmống của tất cảnhũng yếu tố của phép biện chứng".

Chẳng hạn, ở mệnh đề "con ngựa này màu trắng, con ngựa kia màu đen" thì con ngựa này và "con ngựa kia" là hai từ chỉ hai sự vật còn "màu trắng" và "màu đen" là hai từ chỉ hai thuộc tính, đó là thuộc tính màu trắng và thuộc tính màu đen. Màu trắng và màu đen là hai thuộc tính chung tồn tai ở nhiều sự vật chứ không phải chỉ ở hai sự vật. Tất cả những sự vật có thuộc tính màu trắng tuy tồn tại rất phân tán về không gian và thời gian trong hiện thực khách quan nhưng vẫn được tư duy của con người "tập hợp" lại thành một lớp xác định, lớp những sự vậtcó màu trắng (tất cả những sự vật còn lại sẽ ở ngoài lớp đó và được tập hợp vào lớp nhữngsự vật không có màu trắng).Đối với thuộc tính màu đen và lớp những sự vậtcó màu đen cũng tương tự.

Ở mệnh đề “cái này là một cái cốc” thì “cái này” là từ chỉ một sựvật. Nhưng vấn đề phức tạp là ở chỗ "cái cốc" là từ chỉ một sự vật hay là từ chỉ một thuộc tính? Trong hiện thực khách quan có vô số sự vật được gọi là "cái cốc”. Sở dĩ các sự vật khác nhau đều được gọi bằng từ ấy là vì chúng đều có một thuộc tính chung nào đó. Từ “cái cốc" trong mệnh đề nói trên chính là dùng để chỉ thuộc tính chung này. Nói cách khác, từ "cái cốc" là từ dùng để chỉ thuộc tính cái cốc, một thuộc tính chung tồn tại ở từng sự vật thuộc một lớp sự vật xác định, còn từ "cái này” (hoặc tử “cái cốc này”… ) mới là từ chỉ một sự vật. Cái cốc là một thuộc tính tồn tại trong hiện thực khách quan. Tuy nhiên, chúng ta không thể nhìn thấy,sờ thấy hoặc làm vỡ được thuộc tính cái cốc mà chì có thể nhìn thấy, sờ thấy hoặc làm vỡ được các sự vật có thuộc tính ấy.

Nếu như cái cốc là một thuộc tính chung: thì cái nhà nguyên tử, phân tử, sinh vật, thực vật quả cam, quả ôi, động vật, ngựa, người, đàn ông, đàn bà, tư sản, vô sản... cũng là những thuộc tính chung.

Một thuộc tính chung tương ứng với nhiều sự vật. Giả sử S là một thuộc tính chung nào đó thì S1, S2… Sn là những sự vật có thuộc tính S và được tập hợp lại trong tư duy thành lớp S. Tương tự, nếu coi P là một thuộc tính chung khác nào đó thì P1, P2.... Pn là những sự vật có thuộc tính P và được tập hợp lại trong tư duy thành lớp P.Quan hệ giữa S và P có thể là điều hoà (đồng nhất, lệ thuộc, giao nhau) hoặc là không điều hoà. Nếu mọi sự vật có thuộc tính S đều có thuộc tính P và ngược lại, mọi sự vật có thuộc tính P đều có thuộc tính S thì quan hệ giữa S và P là đồng nhất. Nếu mọi sự vật có thuộc tính S đều có thuộc tính P nhưng ngược lại không phái mọi sự vật, có thuộc tính P đều có thuộc tính Sthì quan hệ giữa S và P là lệ thuộc. Quan hệ giữa S và P là giao nhau khi một số sự vật vừa có thuộc tính S vừa có thuộc tính P đồng thời một số sự vật có thuộc tính S còn lại không có thuộc tính P và một số sù vật có thuộc tính P còn lại không có thuộc tính S.

Trong trường hợp mọi sự vật có thuộc tính S đều không có thuộc tính P ngược lại mọi sự vật có thuộc tính P đều không có thuộc tính S thì quan hệ giữa S và Plà không điều hòa.

Mỗi thuộc tính được biểu đạt bằng một từ. Trong tư duy, mỗi từ dùng để biểu đạt một thuộc tính chung nào đó được hình thành sau một quá trình nhận thức lâu dài về thuộc tính chung ấy.Trên cơ sở của các cảm giác và tri giác về các sự vật bằng các thao tác so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hoá, con người đã tìm ra những thuộc tính chung giống nhau của nhiều sự vật và đặt tên cho các thuộc tính chung ấy bảng những từ xác định. Các từ này vốn là những từ được dùng để chỉ các thuộc tính chung. Tuy nhiên, trong cách nói thông thường: nhiều khi chúng ta lại dùng chúng như là những từ chi sự vật. Chẳng hạn, trong các câu đùng được nước là một thuộc tính “của cái cốc" “dẫn được điện là một thuộc tính của kim loại"thì từ "cái cốc" và từ "kim loại đã được dùng như là những từ chỉ sự vật. Cách nói này thực ra là cách nói tắt. Bởi vì không phái cái cốc và kim loại có các thuộc tính đó mà là "tất cả những sự vật có thuộc tínhdựng được nước”, tất cả các sự vật có thuộc tính kim loại đều có thuộc tính dẫn được điện. Cách nói tắt như trên làm cho nhiều người lầm tưởng rằng, cái cốc và kim loại là hai sự vật chứ không phải là hai thuộc tính.

Không những mỗi thuộc tính được biểu đạt bởi một tử. mà mỗi sự vật cũng được biểu đạt bởi một từ. Trong hiện thực khách quan có vô số sự vật khác nhau. Về lý thuyết các sự vật khác nhau có thể được biểu đạt bởi các từ khác nhau hay trong hiện thực khách quan có bao nhiêu sự vật thì có thể có bấy nhiêu từ. Song, trong nhận thức. một từ có thể được chúng ta dùng để chỉ nhiều sự vật. Ví dụ nhiều người có cùng một tên gọi, tên gọi ấy là một từ, đó là từ đa nghĩa được dùng để chỉ nhiều đối tượng mà mỗi đối tượng ở đây là một sự vật (mỗi nghĩa tương ứng với một sự vật). Khác với từ đa nghĩa, từ cái cốc nói ở trên chỉ có một nghĩa được dùng để chỉ một đối tượng: đối tượng nào là một thuộc tính chứ không phải là một sự vật. Thuộc tính cáicốc tồn tại ở một lớp gồm nhiều sự vật khác nhau. Điều đó đôi khi làm cho chúng ta lầm tưởng rằng cái cốc không phải là một thuộc tính.

Tóm lại, trong hiện thực khách quan có vô số đối tượng được gọi là sự vật và vô số đối tượng được gọi là thuộc tính. Sự vật nào cũng có nhiều thuộc tính, thuộc tính nào cũng tồn tại ở một hoặc ở nhiều sự vật. Nhờ có thuộc tính mà chúng ta mới biết được một sự vật nào đó là gì, nó giống và khác với các sự vật khác như thế nào. Sự vật và thuộc tính là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm thuộc tính dùng đề chỉ các đối tượng như màu trắng, màu đen, tốt, xấu, cái cốc, cái nhà, ngựa, người đàn ông, đàn bà, tư sản, vô sản... còn khái niệm sự vật dùng để chỉ các đối tương như cái màu trắng này hoặc cái màu trắng kia, cái cốc này hoặc cái cốc kia, cái nhà này hoặc cái nhà kia, người này hoặc người kia... Tuykhông thể xác định được đầy đủ tất cả các đối tượng thuộc ngoại diên của hai khái niệm này, bởi số lượng các đối tượng ấy là vô cùng lớn nhưng từ những đối tượng vừa nêu chúng ta có thể suy ra được nhiều đối tượng khác.

Trong khi chưa có được một định nghĩa rõ ràng về sự vật và thuộc tính,việc xác định ngoại diên của hai khái niệm ấy là rất cần thiết vì đó là một cơ sơ quan trọng giúp chúng ta tìm hiểu các khái niệm khác hẹp hơn của phép biện chứng duy vật, kể cả các khái niệm cơ bản như cái chung,cái riêng: bản chất, hiện tượng, tất nhiên, ngẫu nhiên. mâu thuẫn, quy luật... Xác định ngoại diên của hai khái niệm sù vật và thuộc tính là một vấn đề ít được đề cập đến trong các sách báo triết học. Để làm rõ vấn đề này cần phải có những nghiên cứu sâu sắc hơn.

Thứ Ba, 16 tháng 8, 2022

Làm thế nào để viết lách tốt hơn?

 

Làm Thế Nào Để Viết Lách Tốt Hơn?

Không phải ai sinh ra cũng có khả năng viết lách. Cũng không nhất định phải học chuyên về mảng xã hội mới có thể viết, mà viết lách là một quá trình dài nó đòi hỏi bạn phải kiên trì. Viết như thế nào mới thu hút được người đọc, sử dụng từ ngữ làm sao cho phù hợp, cách rèn luyện kỹ năng viết mỗi ngày,… câu trả lời nằm trong bài viết này dưới đây.

Mình không phải là sinh viên ngành báo chí hay ngành Văn học thế nhưng mình vẫn có khả năng viết mỗi ngày một bài. Mình đã rèn luyện kỹ năng viết đến nay là được 3 năm, ở bài viết này mình sẽ chia sẻ những phương pháp luyện viết của mình, hy vọng sẽ giúp ích được các bạn, đặc biệt là những bạn chưa biết phải bắt đầu như thế nào. Mời bạn đọc cùng theo dõi!

1. Xác định được mục tiêu viết

Đầu tiên bạn cần xác định được mục tiêu viết, bạn viết cho ai? Bạn viết để làm gì? Và bạn viết như thế nào? Điều này vô cùng quan trọng, bởi bạn sẽ không thể duy trì một công việc nếu như không có mục tiêu hay định hướng rõ ràng. Có người tìm đến viết để giải tỏa cảm xúc, cũng có người tìm đến viết để thể hiện đam mê viết lách. Khi đã có sẵn một kế hoạch thì bạn sẽ có động lực viết nhiều hơn.

Gợi ý: Bạn có thể đặt mục tiêu viết mỗi ngày

2. Rèn luyện viết thường xuyên

Không có bất cứ một kỹ năng nào từ trên trời rơi xuống, nếu muốn giỏi ở bất cứ lĩnh vực nào bạn cũng phải bỏ công sức ra để luyện tập. Và viết lách cũng vậy, nói đến viết thì ai cũng có thể viết được dựa trên sự trải nghiệm của bản thân, thế nhưng bài viết dành cho tất cả mọi  người đọc thì đó lại là một chuyện khác. Bạn cần phải viết rất nhiều mới có thể phát hiện ra những thiếu sót của mình.

3. Chủ đề viết rất quan trọng

Viết cần phải sáng tạo thế nên bạn cần phải khai thác và khám phá ở nhiều thể loại cũng như chủ đề khác nhau. Đừng viết lại những gì người khác đã viết cũng đừng bắt chước theo phong văn của một ai đó. Bạn chỉ cần viết bằng chính cảm xúc của mình, bằng chính sự trải nghiệm của bản thân là được rồi.

Chủ đề viết của bạn có thể là những bài viết thức tỉnh độc giả, bài viết an ủi những nỗi buồn trong cuộc sống.

4. Hãy đọc thật nhiều

Việc đọc không chỉ giúp bạn dung nạp thêm kiến thức mà nó còn làm cho vốn từ của bạn phong phú hơn rất nhiều. Thế nên bạn cần có một thời gian biểu cho việc đọc sách, đọc báo và đọc cái bài viết trên mạng xã hội. Khi đọc và nghiên cứu kĩ bài của một ai đó giúp bạn nhận ra được rất nhiều kinh nghiệm trong việc viết. Có thể kể đến đó là cách sử dụng từ, cách khai thác vấn đề, cách lựa chọn chủ đề viết.

5. Hãy lấy chất liệu nội dung từ cuộc sống

Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng.” Đúng vậy, chất liệu của bài viết được lấy từ cuộc sống ngoài kia sẽ mang lại cảm giác chân thật và gần gũi hơn với độc giả.

Chất liệu nội dung này có thể tìm ở đâu? Rất đơn giản, đó là những trải nghiệm của chính bản thân bạn, của những con người xung quanh bạn. Hoặc có thể đó là câu chuyện của một người nào đó mang lại cảm hứng cho người đọc.

6. Trao đổi kinh nghiệm cùng những người bạn

Bạn có thể trao đổi kinh nghiệm cùng với những người bạn viết lách, mỗi người sẽ cho bạn nhiều góc nhìn khác nhau về việc viết. Từ đó bạn sẽ có thêm kỹ năng viết lách, thế nên đừng ngại trao đổi kinh nghiệm cùng mọi người xung quanh nhé.

7. Lắng nghe ý kiến từ độc giả

Việc được nhận lời khen cho một bài viết chắc chắn sẽ giúp bạn có nhiều động lực hơn nữa cho việc viết. Thế nhưng khi nhận được một phản hồi tiêu cực bạn cũng nên xem xét lại, có thể là bài viết của mình chưa đủ thuyết phục độc giả, bài viết của mình chưa đủ sâu sắc,… Quan trọng nhất chính là phải lắng nghe ý kiến phản hồi từ các độc giả để chúng ta sửa những lỗi bản thân đang mắc phải.

Cuối cùng, muốn rèn luyện bất cứ kỹ năng nào cũng đòi hỏi sự kiên trì của bạn. Viết cũng là một bộ môn nghệ thuật, nếu muốn viết tốt hãy viết nhiều hơn mỗi ngày bạn nhé. Trên đây là những phương pháp mình rút ra được sau hơn 3 năm theo đuổi viết lách. Hy vọng sẽ mang lại cho các bạn nhiều giá trị, đọc sách là một kỹ năng vô cùng quan trọng nếu muốn viết tốt bạn phải có thói quen đọc sách. Đọc để có thêm kiến thức và kỹ năng cũng như trau dồi thêm vốn từ mới có thể viết mỗi ngày.

Cảm ơn bạn đọc đã luôn tin tưởng và theo dõi AnyBooks trong thời gian vừa qua. Sắp tới chúng mình sẽ cho ra thêm nhiều sản phẩm chất lượng hơn nữa, hãy ủng hộ AnyBooks ở các bài viết ở nhiều chuyên mục nhé!

Viết bởi Dương Hạnh - AnyBooks

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2022

Bài báo ISI và Scorepus

1. Tổng quan về công bố ISI và Scopus

Có công bố khoa học quốc tế, nhất là công bố trên các tạp chi quốc tế uy tín, đang là yêu cầu bắt  buộc đối với các ứng viên xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS; các cán bộ giảng viên chủ trì đề tài KH&CN các cấp; các nghiên cứu sinh,... 

1.1. Tạp chí khoa học quốc tế có uy tín.

Uy tín cuả tạp chí khoa học liên quan đến chất lượng khoa học của tạp chí đó, thường được đánh giá qua một hay một số tiêu chí (ví dụ quy trình xuất bản, chất lượng nội dung các bài báo, số lượng trích dẫn, danh tiếng của ban biên tập, danh tiếng của nhà xuất bản,...). Tùy theo quan điểm, mục đích của tổ chức, tiêu chí đánh giá có thể khác nhau và do đó chất lượng, uy tín của tạp chí có thể khác nhau.

Hiện nay, có sự thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng khoa học quốc tế tạp chí khoa học uy tín là các tạp chí được chỉ mục trong danh mục Scopus và danh mục Web of Science Core Collection (WoS, trước đây thường biết với tên gọi phổ biến là ISI).

Ở Việt Nam, với mục đích tính điểm quy đổi để đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS, theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/12/2018 của Thủ thướng Chính phú thì tạp chí khoa học quốc tế có uy tín là những tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN thuộc danh mục trong Web of Science (ISI), danh mục Scopus hoặc danh mục quốc tế khác do Hội đồng Giáo sư nhà nước quyết định (xem Phụ lục 1 của Quyết định 37). Danh mục cụ thể sẽ do các Hội đồng GS ngành, liên ngành công bố hàng năm.

Theo Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED), tạp chí quốc tế có uy tín được quy định cụ thể và khác nhau đối với 2 nhóm lĩnh vực Khoa học tự nhiên-kỹ thuật và Khoa học xã hội-nhân văn. Ví dụ, hiện tại, đối với lĩnh vực Khoa học tự nhiên-kỹ thuật thì đó là 6940 tạp chí thuộc nhóm Q1, Q2, Q3 của danh mục SCIE trong WoS theo từng chuyên ngành (xem Quyêt định số 151/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 09/8/2019); đối với lĩnh vực Khoa học xã hội-nhân văn là tạp chí thuộc danh mục AHCI, SSCI của WoS, tạp chí thuộc danh mục Scopus và tạp chí thuộc các nhà xuất bản uy tín thế giới với danh sách cụ thể (xem Quyêt định số 251/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 11/12/2019).

1.2. Danh mục WoS

WoS là viết tắt của Web of Science, cơ sở dữ liệu (CSDL) trích dẫn các tạp chí khoa học thế giới được tuyển chọn và quản lý bởi Clarivate Analytics (Mỹ). Nguyên CSDL này được sáng lập năm 1956 bởi Viện Thông tin Khoa học (Institute of Scientific Information), nên một thời gian dài được biết dưới tên gọi là ISI. Năm 1992, Thomson Science (sau này là Thomson Reuters) mua lại ISI (nên còn có tên là Thomson ISI) và đến năm 2016, Thomson Reuters bán lại cho Clarivate Analytics.

Phần lõi của WoS (WoS Core Collection) bao gồm dữ liệu trích dẫn các tạp chí khoa học, sách và kỷ yếu hội thảo.

Đối với tạp chí, hiện nay (2020) dữ liệu trích dẫn bao gồm khoảng 22.000 tạp chí của hơn 250 ngành khoa học, phân thành 04 nhóm (thường gọi là danh mục):

- Science Citation Index Expanded (SCIE) với hơn 9.200 tạp chí của khoảng 150 ngành, xuất bản từ 1990 đến nay.

- Social Sciences Citation Index (SSCI) với hơn 3.400 tạp chí của các ngành khoa học xã hội, xuất bản từ 1900 đến nay.

- Arts & Humanities Citation Index (AHCI hay A&HCI) với hơn 1.800 tạp chí các ngành nhân văn và nghệ thuật, xuất bản từ 1975. 

- Emerging Sources Citation Index (ESCI) với hơn 7.800 tạp chí của tất cả các ngành khoa học (đây là các tạp chí “dự bị” để xét chọn vào 3 danh mục trên khi đủ điều kiện về chất lượng).

Chú ý:

- Thời gian đầu, ISI chỉ gồm các tạp chí khoa học tự nhiên và kỹ thuật (danh mục SCI, SCIE), sau này WoS đã bổ sung thêm các danh mục tạp chí khoa học xã hội và nhân văn, nghệ thuật.

- Ban đầu ISI và sau này WoS phân biệt 2 danh mục SCI và SCIE (SCI là một phần trong SCIE).  Chất lượng tạp chí trong 2 danh mục này là như nhau, chỉ khác là các tạp chí SCI chưa có dữ liệu trực tuyến mà chỉ có dữ liệu lưu trên đĩa CD, DVD. Tuy nhiên, từ 2019, do tất cả tạp chí đã có dữ liệu trực tuyến và để trành sự hiểu nhầm nên Clarivate chỉ giữ lại tên SCIE mà không còn dùng tên SCI nữa.

(Nguồn: https://clarivate.com)

1.3. Danh mục Scopus

Danh mục Scopus là CSDL trích dẫn và tóm tắt các ấn phẩm khoa học được tuyển chọn và quản lý bởi Elsevier (Hà Lan), được thành lập từ năm 2004 (muộn hơn ISI/WoS).

CSDL Scopus bao gồm các loại ấn phẩm xuất bản nhiều kỳ (serial publications) có ISSN như tạp chí, chuỗi sách, chuỗi kỷ yếu và các ấn phẩm không xuất bản nhiều kỳ (non-serial publications) có chỉ số ISBN như sách hay kỷ yếu ra một lần.

Tính đến 1/2020, Scopus bao gồm trên 25.100 đầu ấn phẩm nhiều kỳ, trong đó khoảng 23.500 tạp chí có phản biện và hơn 850 chuỗi sách. Tổng số bản ghi là trên 77 triệu, trong đó 67,5% xuât bản sau năm 1996 và 32,5% xuất bản trước 1995.

Scopus không tách riêng các nhóm danh mục như WoS, nhưng phân loại các ấn phẩm theo 4 nhóm lĩnh vực gồm : Khoa học sự sống (Life sciences), Khoa học vật lý (Physical sciences), Khoa học sức khỏe (Health sciences) và Khoa học xã hội & nhân văn (Social sciences & Humanities). Dưới nữa, các ấn phẩm lại được phân thành 27 ngành và hơn 300 chuyên ngành. Trong số 25.100 đầu ấn phẩm có đến 1/2020, tỷ lệ phân bố theo các nhóm lĩnh vực đã nêu theo thứ tự là 15,4% ; 28% ; 30,4% và 26,2%.

Ngoài việc bao gồm nhiều ấn phẩm thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hơn WoS, Scopus còn có ưu điểm cung cấp nhiều chức năng tra cứu rất tiện cho người dùng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tra cứu tài liệu đến đánh giá công bố khoa học của cá nhân và các cơ sở giáo dục đại học. Trong khi WoS rất hạn chế tra cứu miễn phí thì Scopus cho tra cứu miễn phí khá nhiều thông tin.

(Nguồn: https://www.elsevier.com/?a=69451).

1.4. Kiểm tra tạp chí khoa học có thuộc danh mục Scopus hoặc WoS

Cách đơn giản và tin cậy nhất là tra cứu trực tiếp trên các website sau đây :

- Đối với WoS: https://mjl.clarivate.com/

- Đối với Scopus: https://www.scimagojr.com/

Ở ô tìm kiếm, nhập thông tin tạp chí hoặc là chỉ số ISSN hoặc đầy đủ của tên tạp chí.

Chú ý :

- Khi tra cứu đối với WoS, kết quả hiển thị ban đầu chỉ mới gồm thông tin thuộc nhóm danh mục nào (SCIE, SSCI, AHCI, ESCI). Muốn biết thêm chi tiết như chỉ số IF thì phải chọn View profile page và đăng nhập bằng tài khoản cá nhân (tạo miễn phí).

- Với Scopus, khi tra trên trang SCImago, kết quả ban đều chỉ hiển thị tên tạp chí, khi click vào tên sẽ hiện đầy đủ thông tin khác (H-index, CiteScore, Q,…). Đặc biệt, cần chú ý mục “Coverage”, vì thông tin này cho biết liệu tạp chí có còn nằm trong danh mục Scopus nữa hay không hay đã bị đưa ra từ năm nào.

Trường hợp muốn có danh mục sẵn trong máy tính đề tra cứu, có thể tải về các danh mục từ các webssite :

- Đối với WoS: https://mjl.clarivate.com/collection-list-downloads (cần đăng nhập với tài khoản cá nahan)

- Đới với Scopus: https://www.scopus.com/home.uri (Mục Scopus content >> Scopus source list)

1.5. Tạp chí khoa học thuộc cả 2 danh mục Scopus, WoS

Một tạp chí có thể thuộc cả danhmucj Scopus và WoS. Theo một thống kê năm 2019, tính trên toàn bộ CSDL, có 49% số tạp chí vừa thuộc Scopus vừa thuộc WoS. Số còn lại, hoặc chỉ thuộc Scopus mà không thuộc WoS và ngược lại. Tỷ lệ trùng nhau và biệt lập giữa 2 danh mục khác nhau tùy theo lĩnh vực khoa học, ví dụ:

Nhóm lĩnh vực

Chỉ thuộc Scopus

Thuộc cả Scopus và WoS

Chỉ thuộc WoS

Natural Sciences & Engineering

35%

49%

16%

Biomedical Research

49%

43%

8%

Social Sciences

27%

50%

23%

Arts & Humanities

22%

49%

29%

(Nguồn: Simona Tabacaru, April, 2019: https://oaktrust.library.tamu.edu)

1.6. Ngôn ngữ xuất bản của WoS và Scopus

Các tạp chí trong danh mục WoS và Scopus chỉ xuất bản bằng tiếng Anh hay còn có ngôn ngữ nào khác.

Cả trong danh mục WoS và Scopus, ngoài tiếng Anh thì vẫn có các tạp chí xuất bản bằng ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Trung,... Một thống kê tháng 4/2029 (Simona Tabacaru, nguồn theo link có ở trên) cho thấy Scopus có khoảng 22% tạp chí không phải tiếng Anh. Tuy nhiên, khi xuất bản bằng tiếng khác thì tóm tắt buộc phải bằng tiếng Anh.

Một ví dụ, tạp chí "Chinese as a Second Language Research" (e-ISSN: 2193-2271, p-ISSN: 2193-2263) đăng cả bài viết bằng tiếng Anh và bằng tiếng Trung. Tạp chí này thuộc Scopus từ 2017 đến nay.

1.7. Chỉ số ISSN, ISBN

ISSN (International Standard Serial Number) là mã số tiêu chuẩn quốc tế, dưới dạng một dãy số gồm tám chữ số được dùng để nhận dạng một ấn phẩm xuất bản nhiều kỳ như tạp chí, báo, bản tin, chuỗi sách, chuỗi kỷ yếu hội thảo, ….Nhiều xuất bản phẩm có ở cả hai dạng in và điện tử nên được ISSN cũng có hai loại là ISSN in (ISSN, p-ISSN) và ISSN điện tử (e-ISSN hay eISSN). Ví dụ, Tạp chí Khoa học Đại học Huế : Khoa học Tự nhiên có ISSN 1859-1388 và e-ISSN 2615-9678. Hệ thống ISSN được xây dựng như một tiêu chuẩn quốc tế ISO vào năm 1971 và được ấn hành với tên gọi ISO 3297 vào năm 1975, do Tiểu ban ISO TC 46/SC 9 quản lý.

ISBN (International Standard Book Number) là mã số chuẩn quốc tế để nhận dạng một cuốn sách. Hệ thống ISBN được tạo ở Anh năm 1966, sau đó được công nhận quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 2108 năm 1970. ISBN có thể có 10 ký tự  sô (kiểu cũ) hoặc 13 ký tự số (kiểu mới, áp dụng với mã vạch). Ví dụ, một cuốn sách của Nhà xuất bản Đại học Huế có mã ISBN 978-604-974-342-9.

ISSN và ISBN giống nhau về mặt ý tưởng, chỉ khác ở đối tượng nhận diện. Đi kèm với ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nhiều kỳ thì ISBN cũng có thể được cấp cho một kỳ cụ thể của xuất bản phẩm đó.

Chỉ số ISSN của một tạp chí, chỉ số ISBN của một cuốn sách chỉ là mã nhận dạng cho tạp chí hay cuốn sách mà không liên quan và phản ánh chất lượng khoa học của tạp chí hay cuốn sách.

1.8. Chỉ số IF và CiteScore

Hai chỉ số IF và CiteScore là gì, giống nhau và khác nhau thế nào?

Cả WoS và Scopus đều đánh giá và xếp loại chất lượng tạp chí khoa học thông qua số lượng trích dẫn của các bài báo đăng trên tạp chí. WoS sử dụng chỉ số IF (Impact factor, chỉ số ảnh hưởng) còn Scopus thì dùng chỉ số CiteScore (điểm trích dẫn). Như vậy IF và CiteScore đều là 2 chỉ số có bản chất như nhau để đo mức độ ảnh hưởng của tạp chí thông qua trích dẫn; là số trích dẫn trung bình tính trên 1 bài báo của tạp chí trong 1 khoảng thời gian xác định (lấy tổng số trích dẫn của các bài báo của tạp chí chia cho tổng số bài báo trong khoảng thời gian tính). Đúng ra đơn vị của IF và CiteScore là số trích dẫn/bài báo. Khi so giữa các tạp chí trong cùng danh mục, tạp chí nào có IF hay CiteScore càng lớn thì ảnh hưởng hay uy tín càng cao.

Tuy nhiên, IF và CiteScore khác nhau ở một số điểm:

+ IF được tính từ CSDL tạp chí Web of Science (WoS) của Clarivate Analytics còn CiteScore được tính từ CSDL tạp chí Scopus của Elsevier. Hai dữ liệu này khác nhau về quy mô. Do đó, có tạp chí có CiteScore nhưng không có IF (do có tên trong Scopus nhưng không có trong WoS) và ngược lại.

+ IF có từ 1975 nhưng CiteScore thì mới có từ năm 2016.

+ IF tính trung bình cho khoảng thời gian 2 năm trong khi CiteScore (trước đây) thì tính trung bình cho thời gian 3 năm, đặc biệt CiteScore 2019 lại tính cho 4 năm (2016-2019).

+ Giá trị IF và CiteScore của một tạp chí (có tên trong cả WoS và Scopus) sẽ không giống nhau. Khi so sánh giữa các tạp chí thì chỉ được so sánh hoặc theo IF hoặc theo CiteScore mà không thể so sánh ngang giữa IF và CiteScore được (thậm chí có trường hợp cho kết quả ngược nhau). Ví dụ :

Tạp chí

New England Journal of Medicine

Nature Reviews Materials

IF năm 2019

74,699

71,189

CiteScore 2019

66,1

123,7

Trên trang Clarivate (https://mjl.clarivate.com/home) muốn tra IF phải đăng nhập bằng tài khoản, còn trên trang Scopus (https://www.scopus.com/sources) có thể tra CiteScore trực tiếp không cần đăng nhập tài khoản. Tuy nhiên, thường trên trang chủ các tạp chí có cả thông tin IF và CiteScore, hoặc có nhiều trang tra cứu cho phép tra đồng thời cả IF và CiteScore.

1.9. Phân hạng tạp chí Q1, Q2, Q3, Q4  

Số trích dẫn, và theo đó là IF của WoS hay CiteScore của Scopus, rất khác biệt giữa các lĩnh vực, các ngành khoa học. Ví dụ, một thống kê cho thấy bài báo ngành toán có được trích dẫn mười lần là tương đương một bài trong ngành vật lý được trích dẫn khoảng ba chục lần hay một bài trong ngành khoa học sự sống được trích dẫn khoảng sáu chục lần. Do đó, việc so sánh IF hay CiteScore giữa các tạp chí chỉ có ý nghĩa trong từng ngành, từng lĩnh vực khoa học.

Nếu xếp các tạp chí thuộc cùng một ngành/lĩnh vực trong danh mục WoS (hay Scopus) theo chỉ số IF (hay CiteScore) từ cao xuống thấp, thì ứng với các tứ phân vị (quartile) sẽ phân thành 4 hạng:

- Q1 : các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc top 25%

- Q2: các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc nhóm 25 - 50%

- Q3: các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc nhóm 50 - 75%

- Q4: các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc nhóm 75 - 100%.

Các tạp chí khoa học danh tiếng trong một ngành/lĩnh vực chiếm hầu hết hạng Q1.

Do IF và CiteScore khác nhau, nên hạng Q của một tạp chí ở WoS không nhất thiết trùng với hạng Q của tạp chí đó ở Scopus.

Đối với WoS, không thể tra được hạng Q của tạp chí trên trang https://mjl.clarivate.com/ bằng tài khoản miễn phí, nhưng với Scopus thì hoàn toàn có thể tra cứu trực tiếp không cần tài khoản từ trang SCImago https://www.scimagojr.com/.

1.10. Tạp chí khoa học "săn mồi"

Trước nhu cầu công bố khoa học quốc tế gia tăng mạnh, lợi nhuận hấp dẫn của việc xuất bản tạp chí khoa học và xu thế xuất bản trực tuyến, đã xuất hiện các tạp chí khoa học với danh nghĩa “quốc tế” có phí xuất bản rẻ, thời gian xuất bản ngắn nhưng chất lượng thấp. Cộng đồng khoa học gọi các tạp chí này là “predatory journal” – tạm dịch là tạp chí dỏm hay tạp chí săn mồi.

Theo GS. Nguyễn Văn Tuấn từ Úc (xem tại đây), các dấu hiệu để nhận diện tạp chí khoa học dỏm là:

(1). Không có cơ quản chủ quản (thường là các hiệp hội chuyên ngành hoặc trường đại học, viện nghiên cứu).

(2). Tên tạp chí thường chung chung, nghe rất “kêu” hoặc nhái theo tên các tạp chí nổi tiếng (Ví dụ: “Journal of Engineering and Medicine”, “International Journal of Engineering Technology and Scientific Innovation”,...)

(3). Không có tên trong các danh mục WoS, Scopus (GS. Tuấn cho rằng vẫn có một số tạp chí hạng Q3, Q4 của Scopus là tạp chí dỏm).

(4). Tổng Biên tập, thành viên Ban biên tập không có thành tích khoa học tốt, không có tiếng tăm trong lĩnh vực chuyên môn, thường là từ các nước Trung Đông, Ấn Độ, Châu Phi,...

(4). Chất lượng bài báo kém, giá trị khoa học rất thấp, nhiều sai sót do không có phản biện hay có thì rất qua loa để xuất bản nhanh.

(5). Tiếng Anh có nhiều sai sót.

Một số tổ chức, cá nhân đã nỗ lực lập danh sách các tạp chí dỏm để cảnh báo các nhà khoa học. Một trong số đó là “danh sách của Beall” (Beall’s list). Jeffrey Beall là một quản trị viên thư viện tại ĐH Colorado Denver, năm 2010 ông đã thống kê hàng nghìn tạp chí và nhà xuất bản mà ông cho rằng đang lừa dối các tác giả bằng cách thu phí xuất bản nhưng không đi kèm với các quy trình phản biện, biên tập thông thường. Mặc dù năm 2017 Beall đã đóng cửa blog gây tranh cãi của mình do có “sức ép”, nhưng những người khác vẫn tiếp tục duy trì và cập nhật “danh sách của Beall”.

Website “danh sách của Beall” các nhà xuất bản và tạp chí có tiềm năng là dỏm: https://beallslist.net/

2. Tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI và Scopus

Ngày đăng: Thứ Tư 28/08/2019 - 00:00 AM - Lượt xem: 21284

Cách tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI và Scopus như sau:

1. Các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI

- Bước 1: Truy cập đường link: http://mjl.clarivate.com/ 

- Bước 2: Gõ từ khóa hoặc tên đầy đủ của tạp chí cần tra cứu tại Search our Master Journal List

Ví dụ: Muốn kiểm tra tạp chí Journal Of Advanced Concrete Technology, có thể gõ từ khóa Advanced Concrete rồi nhấn Search, kết quả cho ra một danh sách. Nếu tạp chí có tên trong danh sách thì tạp chí đó thuộc danh mục ISI.

- Bước 3: Nhấn Coverage để xem tạp chí thuộc loại nào. Ví dụ:

          Science Citation Index Expanded là tên đầy đủ của danh mục SCIE

          Science Citation Index là tên đầy đủ của danh mục SCI

 Emerging Sources Citation Index là tên đầy đủ của danh mục ESCI

2. Các tạp chí khoa học thuộc danh mục Scopus

Cách 1: Truy cập qua trang scopus.com

- Bước 1: Truy cập đường link: https://www.scopus.com/sources

- Bước 2: Tại ô Subject area chọn Title

- Bước 3: Gõ từ khóa tại ô Enter title và nhấn Find sources

Cách 2: Truy cập qua trang scimagojr.com

- Bước 1: Truy cập đường link: https://www.scimagojr.com/

- Bước 2: Gõ từ khóa và nhấn tìm kiếm

3. Danh sách các tạp chí khoa học thuộc danh mục wos/scopus

Nhằm đáp ứng nhu cầu của giảng viên khoa Xây dựng, Khoa xây dựng trân trọng giới thiệu địa chỉ tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục Web of Science (ISI), Scopus và bảng xếp hạng tạp chí theo Scimago Journal & Country Rank 

1. Địa chỉ tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục Web of Science

https://mjl.clarivate.com/

2. Địa chỉ tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục Scopus

https://www.scopus.com/

3. Địa chỉ tra cứu trực tuyến bảng xếp hạng các tạp chí khoa học theo Scimago Journal & Country Rank 

https://www.scimagojr.com/