Hiển thị các bài đăng có nhãn Phương pháp nghiên cứu khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phương pháp nghiên cứu khoa học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2022

Bài báo ISI và Scorepus

1. Tổng quan về công bố ISI và Scopus

Có công bố khoa học quốc tế, nhất là công bố trên các tạp chi quốc tế uy tín, đang là yêu cầu bắt  buộc đối với các ứng viên xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS; các cán bộ giảng viên chủ trì đề tài KH&CN các cấp; các nghiên cứu sinh,... 

1.1. Tạp chí khoa học quốc tế có uy tín.

Uy tín cuả tạp chí khoa học liên quan đến chất lượng khoa học của tạp chí đó, thường được đánh giá qua một hay một số tiêu chí (ví dụ quy trình xuất bản, chất lượng nội dung các bài báo, số lượng trích dẫn, danh tiếng của ban biên tập, danh tiếng của nhà xuất bản,...). Tùy theo quan điểm, mục đích của tổ chức, tiêu chí đánh giá có thể khác nhau và do đó chất lượng, uy tín của tạp chí có thể khác nhau.

Hiện nay, có sự thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng khoa học quốc tế tạp chí khoa học uy tín là các tạp chí được chỉ mục trong danh mục Scopus và danh mục Web of Science Core Collection (WoS, trước đây thường biết với tên gọi phổ biến là ISI).

Ở Việt Nam, với mục đích tính điểm quy đổi để đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS, theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/12/2018 của Thủ thướng Chính phú thì tạp chí khoa học quốc tế có uy tín là những tạp chí khoa học có mã số chuẩn quốc tế ISSN thuộc danh mục trong Web of Science (ISI), danh mục Scopus hoặc danh mục quốc tế khác do Hội đồng Giáo sư nhà nước quyết định (xem Phụ lục 1 của Quyết định 37). Danh mục cụ thể sẽ do các Hội đồng GS ngành, liên ngành công bố hàng năm.

Theo Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED), tạp chí quốc tế có uy tín được quy định cụ thể và khác nhau đối với 2 nhóm lĩnh vực Khoa học tự nhiên-kỹ thuật và Khoa học xã hội-nhân văn. Ví dụ, hiện tại, đối với lĩnh vực Khoa học tự nhiên-kỹ thuật thì đó là 6940 tạp chí thuộc nhóm Q1, Q2, Q3 của danh mục SCIE trong WoS theo từng chuyên ngành (xem Quyêt định số 151/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 09/8/2019); đối với lĩnh vực Khoa học xã hội-nhân văn là tạp chí thuộc danh mục AHCI, SSCI của WoS, tạp chí thuộc danh mục Scopus và tạp chí thuộc các nhà xuất bản uy tín thế giới với danh sách cụ thể (xem Quyêt định số 251/QĐ-HĐQL-NAFOSTED ngày 11/12/2019).

1.2. Danh mục WoS

WoS là viết tắt của Web of Science, cơ sở dữ liệu (CSDL) trích dẫn các tạp chí khoa học thế giới được tuyển chọn và quản lý bởi Clarivate Analytics (Mỹ). Nguyên CSDL này được sáng lập năm 1956 bởi Viện Thông tin Khoa học (Institute of Scientific Information), nên một thời gian dài được biết dưới tên gọi là ISI. Năm 1992, Thomson Science (sau này là Thomson Reuters) mua lại ISI (nên còn có tên là Thomson ISI) và đến năm 2016, Thomson Reuters bán lại cho Clarivate Analytics.

Phần lõi của WoS (WoS Core Collection) bao gồm dữ liệu trích dẫn các tạp chí khoa học, sách và kỷ yếu hội thảo.

Đối với tạp chí, hiện nay (2020) dữ liệu trích dẫn bao gồm khoảng 22.000 tạp chí của hơn 250 ngành khoa học, phân thành 04 nhóm (thường gọi là danh mục):

- Science Citation Index Expanded (SCIE) với hơn 9.200 tạp chí của khoảng 150 ngành, xuất bản từ 1990 đến nay.

- Social Sciences Citation Index (SSCI) với hơn 3.400 tạp chí của các ngành khoa học xã hội, xuất bản từ 1900 đến nay.

- Arts & Humanities Citation Index (AHCI hay A&HCI) với hơn 1.800 tạp chí các ngành nhân văn và nghệ thuật, xuất bản từ 1975. 

- Emerging Sources Citation Index (ESCI) với hơn 7.800 tạp chí của tất cả các ngành khoa học (đây là các tạp chí “dự bị” để xét chọn vào 3 danh mục trên khi đủ điều kiện về chất lượng).

Chú ý:

- Thời gian đầu, ISI chỉ gồm các tạp chí khoa học tự nhiên và kỹ thuật (danh mục SCI, SCIE), sau này WoS đã bổ sung thêm các danh mục tạp chí khoa học xã hội và nhân văn, nghệ thuật.

- Ban đầu ISI và sau này WoS phân biệt 2 danh mục SCI và SCIE (SCI là một phần trong SCIE).  Chất lượng tạp chí trong 2 danh mục này là như nhau, chỉ khác là các tạp chí SCI chưa có dữ liệu trực tuyến mà chỉ có dữ liệu lưu trên đĩa CD, DVD. Tuy nhiên, từ 2019, do tất cả tạp chí đã có dữ liệu trực tuyến và để trành sự hiểu nhầm nên Clarivate chỉ giữ lại tên SCIE mà không còn dùng tên SCI nữa.

(Nguồn: https://clarivate.com)

1.3. Danh mục Scopus

Danh mục Scopus là CSDL trích dẫn và tóm tắt các ấn phẩm khoa học được tuyển chọn và quản lý bởi Elsevier (Hà Lan), được thành lập từ năm 2004 (muộn hơn ISI/WoS).

CSDL Scopus bao gồm các loại ấn phẩm xuất bản nhiều kỳ (serial publications) có ISSN như tạp chí, chuỗi sách, chuỗi kỷ yếu và các ấn phẩm không xuất bản nhiều kỳ (non-serial publications) có chỉ số ISBN như sách hay kỷ yếu ra một lần.

Tính đến 1/2020, Scopus bao gồm trên 25.100 đầu ấn phẩm nhiều kỳ, trong đó khoảng 23.500 tạp chí có phản biện và hơn 850 chuỗi sách. Tổng số bản ghi là trên 77 triệu, trong đó 67,5% xuât bản sau năm 1996 và 32,5% xuất bản trước 1995.

Scopus không tách riêng các nhóm danh mục như WoS, nhưng phân loại các ấn phẩm theo 4 nhóm lĩnh vực gồm : Khoa học sự sống (Life sciences), Khoa học vật lý (Physical sciences), Khoa học sức khỏe (Health sciences) và Khoa học xã hội & nhân văn (Social sciences & Humanities). Dưới nữa, các ấn phẩm lại được phân thành 27 ngành và hơn 300 chuyên ngành. Trong số 25.100 đầu ấn phẩm có đến 1/2020, tỷ lệ phân bố theo các nhóm lĩnh vực đã nêu theo thứ tự là 15,4% ; 28% ; 30,4% và 26,2%.

Ngoài việc bao gồm nhiều ấn phẩm thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hơn WoS, Scopus còn có ưu điểm cung cấp nhiều chức năng tra cứu rất tiện cho người dùng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tra cứu tài liệu đến đánh giá công bố khoa học của cá nhân và các cơ sở giáo dục đại học. Trong khi WoS rất hạn chế tra cứu miễn phí thì Scopus cho tra cứu miễn phí khá nhiều thông tin.

(Nguồn: https://www.elsevier.com/?a=69451).

1.4. Kiểm tra tạp chí khoa học có thuộc danh mục Scopus hoặc WoS

Cách đơn giản và tin cậy nhất là tra cứu trực tiếp trên các website sau đây :

- Đối với WoS: https://mjl.clarivate.com/

- Đối với Scopus: https://www.scimagojr.com/

Ở ô tìm kiếm, nhập thông tin tạp chí hoặc là chỉ số ISSN hoặc đầy đủ của tên tạp chí.

Chú ý :

- Khi tra cứu đối với WoS, kết quả hiển thị ban đầu chỉ mới gồm thông tin thuộc nhóm danh mục nào (SCIE, SSCI, AHCI, ESCI). Muốn biết thêm chi tiết như chỉ số IF thì phải chọn View profile page và đăng nhập bằng tài khoản cá nhân (tạo miễn phí).

- Với Scopus, khi tra trên trang SCImago, kết quả ban đều chỉ hiển thị tên tạp chí, khi click vào tên sẽ hiện đầy đủ thông tin khác (H-index, CiteScore, Q,…). Đặc biệt, cần chú ý mục “Coverage”, vì thông tin này cho biết liệu tạp chí có còn nằm trong danh mục Scopus nữa hay không hay đã bị đưa ra từ năm nào.

Trường hợp muốn có danh mục sẵn trong máy tính đề tra cứu, có thể tải về các danh mục từ các webssite :

- Đối với WoS: https://mjl.clarivate.com/collection-list-downloads (cần đăng nhập với tài khoản cá nahan)

- Đới với Scopus: https://www.scopus.com/home.uri (Mục Scopus content >> Scopus source list)

1.5. Tạp chí khoa học thuộc cả 2 danh mục Scopus, WoS

Một tạp chí có thể thuộc cả danhmucj Scopus và WoS. Theo một thống kê năm 2019, tính trên toàn bộ CSDL, có 49% số tạp chí vừa thuộc Scopus vừa thuộc WoS. Số còn lại, hoặc chỉ thuộc Scopus mà không thuộc WoS và ngược lại. Tỷ lệ trùng nhau và biệt lập giữa 2 danh mục khác nhau tùy theo lĩnh vực khoa học, ví dụ:

Nhóm lĩnh vực

Chỉ thuộc Scopus

Thuộc cả Scopus và WoS

Chỉ thuộc WoS

Natural Sciences & Engineering

35%

49%

16%

Biomedical Research

49%

43%

8%

Social Sciences

27%

50%

23%

Arts & Humanities

22%

49%

29%

(Nguồn: Simona Tabacaru, April, 2019: https://oaktrust.library.tamu.edu)

1.6. Ngôn ngữ xuất bản của WoS và Scopus

Các tạp chí trong danh mục WoS và Scopus chỉ xuất bản bằng tiếng Anh hay còn có ngôn ngữ nào khác.

Cả trong danh mục WoS và Scopus, ngoài tiếng Anh thì vẫn có các tạp chí xuất bản bằng ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Trung,... Một thống kê tháng 4/2029 (Simona Tabacaru, nguồn theo link có ở trên) cho thấy Scopus có khoảng 22% tạp chí không phải tiếng Anh. Tuy nhiên, khi xuất bản bằng tiếng khác thì tóm tắt buộc phải bằng tiếng Anh.

Một ví dụ, tạp chí "Chinese as a Second Language Research" (e-ISSN: 2193-2271, p-ISSN: 2193-2263) đăng cả bài viết bằng tiếng Anh và bằng tiếng Trung. Tạp chí này thuộc Scopus từ 2017 đến nay.

1.7. Chỉ số ISSN, ISBN

ISSN (International Standard Serial Number) là mã số tiêu chuẩn quốc tế, dưới dạng một dãy số gồm tám chữ số được dùng để nhận dạng một ấn phẩm xuất bản nhiều kỳ như tạp chí, báo, bản tin, chuỗi sách, chuỗi kỷ yếu hội thảo, ….Nhiều xuất bản phẩm có ở cả hai dạng in và điện tử nên được ISSN cũng có hai loại là ISSN in (ISSN, p-ISSN) và ISSN điện tử (e-ISSN hay eISSN). Ví dụ, Tạp chí Khoa học Đại học Huế : Khoa học Tự nhiên có ISSN 1859-1388 và e-ISSN 2615-9678. Hệ thống ISSN được xây dựng như một tiêu chuẩn quốc tế ISO vào năm 1971 và được ấn hành với tên gọi ISO 3297 vào năm 1975, do Tiểu ban ISO TC 46/SC 9 quản lý.

ISBN (International Standard Book Number) là mã số chuẩn quốc tế để nhận dạng một cuốn sách. Hệ thống ISBN được tạo ở Anh năm 1966, sau đó được công nhận quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 2108 năm 1970. ISBN có thể có 10 ký tự  sô (kiểu cũ) hoặc 13 ký tự số (kiểu mới, áp dụng với mã vạch). Ví dụ, một cuốn sách của Nhà xuất bản Đại học Huế có mã ISBN 978-604-974-342-9.

ISSN và ISBN giống nhau về mặt ý tưởng, chỉ khác ở đối tượng nhận diện. Đi kèm với ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nhiều kỳ thì ISBN cũng có thể được cấp cho một kỳ cụ thể của xuất bản phẩm đó.

Chỉ số ISSN của một tạp chí, chỉ số ISBN của một cuốn sách chỉ là mã nhận dạng cho tạp chí hay cuốn sách mà không liên quan và phản ánh chất lượng khoa học của tạp chí hay cuốn sách.

1.8. Chỉ số IF và CiteScore

Hai chỉ số IF và CiteScore là gì, giống nhau và khác nhau thế nào?

Cả WoS và Scopus đều đánh giá và xếp loại chất lượng tạp chí khoa học thông qua số lượng trích dẫn của các bài báo đăng trên tạp chí. WoS sử dụng chỉ số IF (Impact factor, chỉ số ảnh hưởng) còn Scopus thì dùng chỉ số CiteScore (điểm trích dẫn). Như vậy IF và CiteScore đều là 2 chỉ số có bản chất như nhau để đo mức độ ảnh hưởng của tạp chí thông qua trích dẫn; là số trích dẫn trung bình tính trên 1 bài báo của tạp chí trong 1 khoảng thời gian xác định (lấy tổng số trích dẫn của các bài báo của tạp chí chia cho tổng số bài báo trong khoảng thời gian tính). Đúng ra đơn vị của IF và CiteScore là số trích dẫn/bài báo. Khi so giữa các tạp chí trong cùng danh mục, tạp chí nào có IF hay CiteScore càng lớn thì ảnh hưởng hay uy tín càng cao.

Tuy nhiên, IF và CiteScore khác nhau ở một số điểm:

+ IF được tính từ CSDL tạp chí Web of Science (WoS) của Clarivate Analytics còn CiteScore được tính từ CSDL tạp chí Scopus của Elsevier. Hai dữ liệu này khác nhau về quy mô. Do đó, có tạp chí có CiteScore nhưng không có IF (do có tên trong Scopus nhưng không có trong WoS) và ngược lại.

+ IF có từ 1975 nhưng CiteScore thì mới có từ năm 2016.

+ IF tính trung bình cho khoảng thời gian 2 năm trong khi CiteScore (trước đây) thì tính trung bình cho thời gian 3 năm, đặc biệt CiteScore 2019 lại tính cho 4 năm (2016-2019).

+ Giá trị IF và CiteScore của một tạp chí (có tên trong cả WoS và Scopus) sẽ không giống nhau. Khi so sánh giữa các tạp chí thì chỉ được so sánh hoặc theo IF hoặc theo CiteScore mà không thể so sánh ngang giữa IF và CiteScore được (thậm chí có trường hợp cho kết quả ngược nhau). Ví dụ :

Tạp chí

New England Journal of Medicine

Nature Reviews Materials

IF năm 2019

74,699

71,189

CiteScore 2019

66,1

123,7

Trên trang Clarivate (https://mjl.clarivate.com/home) muốn tra IF phải đăng nhập bằng tài khoản, còn trên trang Scopus (https://www.scopus.com/sources) có thể tra CiteScore trực tiếp không cần đăng nhập tài khoản. Tuy nhiên, thường trên trang chủ các tạp chí có cả thông tin IF và CiteScore, hoặc có nhiều trang tra cứu cho phép tra đồng thời cả IF và CiteScore.

1.9. Phân hạng tạp chí Q1, Q2, Q3, Q4  

Số trích dẫn, và theo đó là IF của WoS hay CiteScore của Scopus, rất khác biệt giữa các lĩnh vực, các ngành khoa học. Ví dụ, một thống kê cho thấy bài báo ngành toán có được trích dẫn mười lần là tương đương một bài trong ngành vật lý được trích dẫn khoảng ba chục lần hay một bài trong ngành khoa học sự sống được trích dẫn khoảng sáu chục lần. Do đó, việc so sánh IF hay CiteScore giữa các tạp chí chỉ có ý nghĩa trong từng ngành, từng lĩnh vực khoa học.

Nếu xếp các tạp chí thuộc cùng một ngành/lĩnh vực trong danh mục WoS (hay Scopus) theo chỉ số IF (hay CiteScore) từ cao xuống thấp, thì ứng với các tứ phân vị (quartile) sẽ phân thành 4 hạng:

- Q1 : các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc top 25%

- Q2: các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc nhóm 25 - 50%

- Q3: các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc nhóm 50 - 75%

- Q4: các tạp chí có IF (hay CiteScore) thuộc nhóm 75 - 100%.

Các tạp chí khoa học danh tiếng trong một ngành/lĩnh vực chiếm hầu hết hạng Q1.

Do IF và CiteScore khác nhau, nên hạng Q của một tạp chí ở WoS không nhất thiết trùng với hạng Q của tạp chí đó ở Scopus.

Đối với WoS, không thể tra được hạng Q của tạp chí trên trang https://mjl.clarivate.com/ bằng tài khoản miễn phí, nhưng với Scopus thì hoàn toàn có thể tra cứu trực tiếp không cần tài khoản từ trang SCImago https://www.scimagojr.com/.

1.10. Tạp chí khoa học "săn mồi"

Trước nhu cầu công bố khoa học quốc tế gia tăng mạnh, lợi nhuận hấp dẫn của việc xuất bản tạp chí khoa học và xu thế xuất bản trực tuyến, đã xuất hiện các tạp chí khoa học với danh nghĩa “quốc tế” có phí xuất bản rẻ, thời gian xuất bản ngắn nhưng chất lượng thấp. Cộng đồng khoa học gọi các tạp chí này là “predatory journal” – tạm dịch là tạp chí dỏm hay tạp chí săn mồi.

Theo GS. Nguyễn Văn Tuấn từ Úc (xem tại đây), các dấu hiệu để nhận diện tạp chí khoa học dỏm là:

(1). Không có cơ quản chủ quản (thường là các hiệp hội chuyên ngành hoặc trường đại học, viện nghiên cứu).

(2). Tên tạp chí thường chung chung, nghe rất “kêu” hoặc nhái theo tên các tạp chí nổi tiếng (Ví dụ: “Journal of Engineering and Medicine”, “International Journal of Engineering Technology and Scientific Innovation”,...)

(3). Không có tên trong các danh mục WoS, Scopus (GS. Tuấn cho rằng vẫn có một số tạp chí hạng Q3, Q4 của Scopus là tạp chí dỏm).

(4). Tổng Biên tập, thành viên Ban biên tập không có thành tích khoa học tốt, không có tiếng tăm trong lĩnh vực chuyên môn, thường là từ các nước Trung Đông, Ấn Độ, Châu Phi,...

(4). Chất lượng bài báo kém, giá trị khoa học rất thấp, nhiều sai sót do không có phản biện hay có thì rất qua loa để xuất bản nhanh.

(5). Tiếng Anh có nhiều sai sót.

Một số tổ chức, cá nhân đã nỗ lực lập danh sách các tạp chí dỏm để cảnh báo các nhà khoa học. Một trong số đó là “danh sách của Beall” (Beall’s list). Jeffrey Beall là một quản trị viên thư viện tại ĐH Colorado Denver, năm 2010 ông đã thống kê hàng nghìn tạp chí và nhà xuất bản mà ông cho rằng đang lừa dối các tác giả bằng cách thu phí xuất bản nhưng không đi kèm với các quy trình phản biện, biên tập thông thường. Mặc dù năm 2017 Beall đã đóng cửa blog gây tranh cãi của mình do có “sức ép”, nhưng những người khác vẫn tiếp tục duy trì và cập nhật “danh sách của Beall”.

Website “danh sách của Beall” các nhà xuất bản và tạp chí có tiềm năng là dỏm: https://beallslist.net/

2. Tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI và Scopus

Ngày đăng: Thứ Tư 28/08/2019 - 00:00 AM - Lượt xem: 21284

Cách tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI và Scopus như sau:

1. Các tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI

- Bước 1: Truy cập đường link: http://mjl.clarivate.com/ 

- Bước 2: Gõ từ khóa hoặc tên đầy đủ của tạp chí cần tra cứu tại Search our Master Journal List

Ví dụ: Muốn kiểm tra tạp chí Journal Of Advanced Concrete Technology, có thể gõ từ khóa Advanced Concrete rồi nhấn Search, kết quả cho ra một danh sách. Nếu tạp chí có tên trong danh sách thì tạp chí đó thuộc danh mục ISI.

- Bước 3: Nhấn Coverage để xem tạp chí thuộc loại nào. Ví dụ:

          Science Citation Index Expanded là tên đầy đủ của danh mục SCIE

          Science Citation Index là tên đầy đủ của danh mục SCI

 Emerging Sources Citation Index là tên đầy đủ của danh mục ESCI

2. Các tạp chí khoa học thuộc danh mục Scopus

Cách 1: Truy cập qua trang scopus.com

- Bước 1: Truy cập đường link: https://www.scopus.com/sources

- Bước 2: Tại ô Subject area chọn Title

- Bước 3: Gõ từ khóa tại ô Enter title và nhấn Find sources

Cách 2: Truy cập qua trang scimagojr.com

- Bước 1: Truy cập đường link: https://www.scimagojr.com/

- Bước 2: Gõ từ khóa và nhấn tìm kiếm

3. Danh sách các tạp chí khoa học thuộc danh mục wos/scopus

Nhằm đáp ứng nhu cầu của giảng viên khoa Xây dựng, Khoa xây dựng trân trọng giới thiệu địa chỉ tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục Web of Science (ISI), Scopus và bảng xếp hạng tạp chí theo Scimago Journal & Country Rank 

1. Địa chỉ tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục Web of Science

https://mjl.clarivate.com/

2. Địa chỉ tra cứu trực tuyến các tạp chí khoa học thuộc danh mục Scopus

https://www.scopus.com/

3. Địa chỉ tra cứu trực tuyến bảng xếp hạng các tạp chí khoa học theo Scimago Journal & Country Rank 

https://www.scimagojr.com/ 

Thứ Tư, 16 tháng 6, 2021

TAM ĐOẠN LUẬN VÀ GIỚI HẠN CỦA LUẬN LÝ

(Theo nguồn Internet)

Hôm nay chúng ta sẽ khảo sát hai lý luận căn bản nhất trong luận lý học, mà ta dùng hằng ngày, để hiểu rõ và nắm vững chúng trong đời sống và công việc hằng ngày. Đó là tam đoạn luận suy diễn và tam đoạn luận quy nạp. Đồng thời ta sẽ cảnh báo về các giới hạn tự nhiên của ngôn ngữ và lý luận.

• Tam đoạn luận hầu như là nền tảng của phần lớn, nếu không nói là tất cả, suy tư của con người. Tam đoạn luận là lý luận ba câu. Ví dụ: (1) Mọi người đều chết. (2) Ông Xuân là người. (3) Vì vậy, ông Xuân sẽ chết. Hai câu đầu (1) và (2) của tam đoạn luận nầy là 2 tiền đề–tiền đề 1 và tiền đề 2. “Tiền” là trước (không phải là “money”, nhưng nếu bạn hiểu là money cho dễ nhớ thì cũng tốt, vì money thường đi trước mọi sự :-)), tiền đề là mệnh đề đi trước; câu (3) là kết đề, tức là kết luận rút ra từ hai tiền đề.
Tam đoạn luận trên đây là tam đoạn luận suy diễn, nó vì nó “suy” từ cái chung (mọi người) đến cái riêng (ông Xuân).

• Lý luận theo chiều ngược lại, từ VÀI cái riêng đến cái chung, goi là quy nạp. Và quy nạp thì dựa vào quan sát các trường hợp cá nhân, mà “quy” về một định luật chung cho tất cả. Ví dụ: (1) Hùng Vương chết, Hai Bà Trưng chết, Trần Hưng Đạo chết, Quang Trung chết, ông tôi chết, bà tôi chết, v.v.. (2) Các vị đó là người. (3) Vì vậy, mọi người đều phải chết.

• Hai tam đoạn luận này ta dùng rất thường xuyên trong ngày, nhưng gọn gàng hơn. Ví dụ, suy diễn kiểu các bà :-): “Ông này làm gì mà ôm điện thoại đi ra xa, nói nhỏ xíu. Chắc là liên hệ bất chính với cô nào rồi.” Đây là rút ngắn của môt tam đoạn luận: (1) Đàn ông nói điện thoại cách bí mật là có liên hệ bất chính với đàn bà. (2) Ông này đang bí mật. (3) Vì vậy, ông này có liên hệ bất chính.

argument1

• Lỗi lầm thường thấy nhất trong tam đoạn luận suy diễn là tiền đề đầu tiên thường quá rộng, theo kiểu vơ đũa cả nắm. Trong ví dụ trên, ở tiền đề 1, ta thấy ngay là nói chuyện bí mật đâu nhất thiết có nghĩa là có liên hệ bất chính, giả sử đó là bí mật quốc phòng hay bí mật nghề nghiệp thì sao?

Muốn cho chính xác hơn thì ta phải “thu nhỏ” lại một tí,và nói theo kiểu xác suất. Ví dụ: (1) Đàn ông, không thuộc diện có bí mật nghề nghiệp, mà nói chuyện bí mật thì có khả năng cao là có liên hệ bất chính. (2) Ông này không thuộc diện có bí mật nghề nghiệp mà cứ nói chuyện kiểu bí mật trước mặt mình, (3) thì có khả năng cao là có liên hệ bất chính.

“Khả năng cao” thì khá chính xác trên phương diện lý luận, nhưng không mạnh như trăm-phần-trăm. Vì vậy, các quí vị thiếu kinh nghiệm thuyết phục thường cứ cố ăn nói viết lách kiểu trăm-phần-trăm cho mạnh mẽ, nhưng làm người nghe và người đọc nhận ra ngay là mình lớ ngớ và không thành thật.

• Điểm yếu của tiền đề 1 của tam đoạn luận suy diễn cũng chính là điểm yếu của kết đề của tam đoạn luận quy nạp. (1) Tôi thấy ông A nói điện thoại bí mật và có liên hệ bất chính. (2) Tôi cũng thấy ông B cũng vây; ông C cũng vậy.… (3) Vì vậy, hễ đàn ông nói chuyện điện thoại bí mật là có liên hệ bất chính.

Kết luận này quá rộng, theo kiểu vơ đũa cả nắm, cho nên không tin được. Nếu giảm lại một tí theo cách nói xác suất thì dễ tin hơn: “Vì vậy, hễ đàn ông nói điện thoại bí mật là có khả năng có liên hệ bất chính.”

• Cả suy diễn và quy nạp (cũng như mọi luận lý khác của con người) đều có môt điểm rất yếu nữa, đó là các từ ngữ của con người luôn luôn có tính cách mù mờ, dùng tạm qua ngày thôi, chứ không giải quyết điều gì rốt ráo được. Ví du: (1) Hồng nhan thì đa truân. (2) Cô ấy đẹp quá. (3) Thành ra đời cô ấy khổ.

Phản biện: “Trời, con nhỏ đó, cái mặt mẹt như vậy mà chị nói là đẹp. Nó cực vì chuyên môn nói xạo, chớ hồng nhan cái gì!”

Ở đây ta thấy, từ “đẹp” rất mù mờ. Đẹp xấu tùy người đối diện, tùy say hay tĩnh. Bất cứ từ nào trong ngôn ngữ con người cũng đều mù mờ như thế. Cho nên, những người tin rằng có thể dùng ngôn ngữ và lý luận để giải quyết mọi thắc mắc ở đời, tìm ra mọi chân lý ở đời, là những người rất thiếu kinh nghiệm về lý luận.

argument

• Một điểm yếu rất lớn khác nữa là tất cả mọi phương thức lý luận (kể cả tam đoạn luận) chỉ do con người tìm ra được trong cuộc sống mắt thấy tai nghe. Ví dụ: Tiền đề “Mọi người đều chết”. Ta biết được điều này là do thấy trong lịch sử (qua sách vở) và chung quanh ta ai cũng có lúc chết, cho nên ta “qui nạp” thành kết luận “Mọi người đều chết.” Rồi ta lại mang kết luận quy nạp này làm tiền đề cho một suy diễn mới, “Mọi người đều chết, hắn là người, cho hắn tha hồ ba hoa chích chòe đi rồi cũng có lúc phải chầu chúa thôi!”

Tức là quy nạp, suy diễn, hay bất kỳ lý luận nào ta sẽ học sau này, cũng chỉ là do kinh nghiệm quan sát của con người mà ra. Cho nên, các lý luận này khi gặp điều gì vượt quá vòng kinh nghiệm thường ngày của con người thì hoàn toàn không sử dụng được. Ví dụ: Tự nhiên có một cô gái rất trẻ, nhìn mới hai mươi mấy, đến gặp bạn và nói: “Tôi nói cho cậu bé hay nhé, cậu năm nay cở bốn mấy, thế thì cậu phải gọi tôi là ‘bà tiên tổ’ mới đúng, vì tôi năm nay 3.125 tuổi rồi.” Nếu cô bé này cứ nhất định như thế, và nếu chúng ta không thể chứng minh được tông tích cô này, toàn hệ thống công an cảnh sát của thế giới không có cách nào chứng minh được cô này từ đâu mà có, thì lúc đó ta có thể thấy lời cô ta nói có một cái gì đó có thể có giá trị, chứ chưa chắc là cô ta điên, và qui luật “Mọi người đều phải chết” có thể không dùng được, tối thiểu là trong trường hợp cô bé này.

• Nhận xét trên đây có hậu quả rất lớn cho đời sống con người trên thế giới ngày nay: Trong những lãnh vực xa hơn kinh nghiệm mắt thấy tai nghe (cộng thêm các máy móc phụ mắt và phụ tai), thì toàn hệ thống suy luận của con người không sử dụng được, và đó là lý do tại sao mà tôn giáo và các truyền thông tâm linh luôn luôn sống mạnh cho đến ngày nay, dù là tôn giáo và các truyền thống tâm kinh nói nhiều điều rất khác với kinh nghiệm hằng ngày và lý luận hằng ngày của ta. Các tôn giáo và truyền thống tâm tinh thường nhấn mạnh đến những kinh nghiệm vượt xa kinh nghiệm hằng ngày—Ví dụ: Nói chuyện với Chúa hiện ra trước mặt, nói chuyện với Quan âm Bồ tát hiện ra trước mặt… Ở đây ta không bàn đúng sai, ta chỉ cần hiểu rằng các kinh nghiệm cá nhân siêu hình, dù thật hay không thật, là các kinh nghiệm không thuộc trong lĩnh vực hoạt dộng của ngôn ngữ và lý luận thông thường. Cho nên nếu ta cố gắng tranh biện về các vấn đề này tức là ta rất thiếu kinh nghiệm về ngôn ngữ và lý luận.

• Một điểm quan trọng khác trong việc sử dụng và hiểu biết ngôn ngữ là: Ngôn ngữ, vì giới hạn rất lớn của nó, thường được sử dụng như là “hé cánh cửa” để mời ta vào bên trong và thấy rõ hơn. Nếu ta không chịu mở cửa bước vào, thì không thể thấy bên trong. Ví dụ: Bạn thường ngày về nhà 6 giờ chiều. Hôm nay không hẹn nhưng lại về 11 giờ đêm, vào nhà thấy nàng còn ngồi đó bên mâm cơm và nói “Em đợi anh từ chiều đến giờ.” Bạn thực sự thấy được gì, thấy được bao nhiêu, trong câu nói đơn sơ nhẹ nhàng đó, hay là chỉ lý luận: “Đến giờ thì đi ngủ đi chứ, tại sao đợi làm gì?”

• Luận lý học là khoa học về sử dụng ngôn ngữ và lý luận chính xác. Nó rất cần cho chúng ta trong công việc và đời sống hằng ngày. Cho nên ta phải nắm vững. Và khi đã nắm vững, ta cũng phải biết ngôn ngữ và lý luận có rất nhiều giới hạn. Khi đọc hay nghe một câu nói, có nghĩa là chúng ta nhận được cái bánh ít bọc lá chuối. Ngôn ngữ lý luận là lớp lá bọc, tư tưởng tâm tình là bánh bên trong. Ta ăn bánh bỏ vỏ, hay ăn vỏ bỏ bánh?

Chúc các bạn một ngày vui.

Mến,

Hoành

 Stumble It!

© Copyright 2009, TDH
Licensed for non-commercial use

Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2020

Tóm tắt ý chính là cách hiểu nội dung nhanh nhất một bài viết.

Trong quá trình tìm hiểu và viết bài cho hội thảo thư viện (Tháng 8/2020) mình vô tình đọc được bài viết trên mạng với tiêu đề "Nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc", đọc kỹ thì tác giả viết khá có cấu trúc, chặt chẽ về mặt bố cục. Tuy nhiên cách viết còn chưa thể hiện cấu trúc, làm cho người đọc dễ dàng hiểu hơn về bài viết. Những chữ màu đỏ là mình thêm vào với ý là tóm tắt nội dung. Qua đó chúng ta thấy rõ cấu trúc bài viết, hiện còn thiếu phần mở đầu, phần kết luận chưa có. Dưới đây là toàn văn bài viết với những ý chính đã được đánh mục thêm vào.



Nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc

Trương Đại Lượng - Nguyễn Hữu Nghĩa

Khoa Thư viện Thông tin, Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội 

(Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam)

 

          1. Khải niệm về công tác phục vụ người đọc

          Công tác người đọc hay việc tổ chức phục vụ tài liệu cho người đọc là một hoạt động của thư viện nhằm thúc đẩy, phát triển và thoả mãn nhu cầu, hứng thú đọc tài liệu thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn và cung cấp tài liệu dưới nhiều hình thức. Công tác người đọc bao gồm các hình thức tổ chức và phương pháp phục vụ người đọc ở trong và ngoài thư viện. Đồng thời công tác người đọc còn là thước đo hiệu quả luân chuyển tài liệu và tác dụng của nó trong đời sống.

          2. Ý nghĩa tầm quan trọng của công tác phục vụ người đọc

          Với ý nghĩa đó “Công tác người đọc luôn được coi là công tác quan trọng nhất của thư viện. Bởi vì, thông qua công tác này vốn tài liệu quý giá của thư viện mới được sử dụng có hiệu quả, mới phát huy được tác dụng trong phát triển mọi mặt của đất nước, từ đó vị trí, vai trò xã hội của thư viện mới được khẳng định” (1). Trong thực tiễn hoạt động của các thư viện và cơ quan thông tin cho thấy công tác người đọc có rất nhiều vai trò khác nhau song nổi bật là công tác người đọc được ví như “chiếc cầu” nối liền người đọc với vốn tài liệu thông qua vai trò của người cán bộ thư viện. Thông qua công tác người đọc vốn tài liệu của thư viện được khai thác, sử dụng và thư viện có thể tìm hiểu và nắm được nhu cầu đọc, nhu cầu tin của người đọc và chính điều đó là cơ sở của các hoạt động khác trong thư viện.

          3. Khảo sát, đánh giá hiện trạng về công tác phục vụ bạn đọc

          Nhận thức được đầy đủ vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác phục vụ người đọc trong thư viện nói riêng và trong xã hội nói chung, trong những năm gần đây công tác phục vụ người đọc của các thư viện ở nước ta đã và đang đạt được nhiều tiến bộ trên các mặt hoạt động:

          Trước đây, hầu hết các Thư viện Việt Nam như: các thư viện công cộng, thư viện chuyên ngành hoặc các thư viện trường đại học đều chọn hình thức phục vụ thông qua phiếu yêu cầu. Ngày nay với sự trợ giúp của các thiết bị kiểm soát tài liệu như camera, cổng từ,… để rút ngắn thời gian tra tìm tài liệu, chờ mượn tài liệu, giảm bớt công sức của cán bộ thư viện và đồng thời kích thích nhu cầu đọc, nhu cầu tin, tạo điều kiện cho người đọc được tiếp xúc trực tiếp với tài liệu, nhiều thư viện đã chuyển sang hình thức phục vụ tự chọn. Đây là hình thức phục vụ có nhiều ưu điểm, được áp dụng phổ biến trong thư viện của các nước tiên tiến, rất phù hợp với việc lưu thông tài liệu (mượn và trả tài liệu) trong các thư viện hiện đại có sử dụng phần mềm quản trị thư viện tích hợp cho phép quản lý người đọc và tài liệu bằng mã vạch, quản lý việc mượn, trả tài liệu qua đầu đọc (barcode scanner) cầm tay hay tự động.

          Để thoả mãn nhu cầu tin của người đọc, những năm gần đây ngoài việc duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ đọc và mượn tài liệu, các thư viện đã và đang phát triển nhiều dạng dịch vụ như dịch vụ tra cứu (tham khảo – reference service), tham khảo số (digital reference service), cung cấp thông tin chọn lọc, tra cứu trực tuyến, sử dụng tài liệu điện tử với các CSDL toàn văn (tài liệu số hoá), nhân bản tài liệu, khai thác internet, giải đáp thông tin qua điện thoại, truyền tệp,… Ví dụ như Thư viện Quốc gia Việt Nam, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia,        Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Học liệu - Đại học Huế, Trung tâm học liệu - Đại học Cần Thơ,… đã cho phép người đọc tra cứu CSDL thư mục từ xa; Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia Việt Nam, Thư viện Đại học RMIT cho phép người đọc khai thác tài liệu toàn văn trên mạng. Thư viện tỉnh Cần Thơ, Thư viện TP. Hồ Chí Minh đang cung cấp dịch vụ giải đáp thông tin qua điện thoại.

          Hơn nữa, ngày nay các thư viện đã nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông vào quản lý các hoạt động của thư viện, trong đó có hoạt động quản lý người đọc và lưu thông tài liệu. Phần mềm CDS/ISIS đã được các thư viện Việt Nam ứng dụng từ lâu, nhưng phần mềm này chỉ cho phép chúng ta quản lý và tra cứu tài liệu. Đến nay chúng ta đã sử dụng nhiều phần mềm tích hợp quản trị thư viện khác nhau như Libol, Ilib, và một số phần mềm của nước ngoài để quản lý việc lưu thông tài liệu và bạn đọc. Cụ thể các phần mềm này đã giải quyết được một số công việc như: ghi mượn và trả tài liệu tự động hoặc qua đầu đọc (barcode scanner) cầm tay, thống kê tài liệu, thống kê lượt đọc, quản lý người đọc qua việc mượn trả như sách quá hạn, gia hạn, đặt trước, giữ lại, cấp phát và gia hạn thẻ tại chỗ hoặc từ xa...

          4. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác phục vụ bạn đọc

          Để nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc chúng ta không thể phủ nhận vai trò của người cán bộ thư viện. Có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau về vai trò của người cán bộ thư viện, có những học giả cho rằng trong thư viện, máy móc kỹ thuật mới là điều quyết định sự thành công của thư viện, co quan điểm lại cho rằng trong thư viện người cán bộ (thủ thư) mới là quan trọng. James I. Wyer một học giả Mỹ ngay từ năm 1923 đã cho rằng người cán bộ thư viện chính là linh hồn của thư viện. Thực tiễn cho chúng ta thấy ngày nay với sự xuất hiện của một số loại hình thư viện mới như thư viện điện tử, thư viện ảo... song vai trò của người cán bộ thủ thư không mất đi mà trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đòi hỏi người cán bộ thủ thư luôn phải nâng cao trình độ thì mới có khả năng đáp ứng được các yêu cầu phức tạp và đa dạng của người đọc, người dùng tin. Nếu như trong các thư viện truyền thống, cán bộ thủ thư giữ vai trò chính trong việc trực tiếp tiếp nhận yêu cầu và lấy tài liệu phục vụ thì trong các thư viện ảo người thủ thư tiếp nhận, trả lời các yêu cầu tin, và giao tiếp với người đọc, người dùng tin qua mạng với dịch vụ tham khảo ảo 24/7, hoặc qua điện thoại... Ngày nay do nhận thức đúng đắn về vai trò của cán bộ thủ thư, nhiều thư viện luôn ưu tiên những cán bộ trẻ, năng động, có kỹ năng tra cứu thông tin, có phương pháp trao đổi với người đọc tốt phục vụ ở tuyến trước (phục vụ người đọc). Đặc biệt tại một số thư viện như Trung tâm Học liệu - Đại học Huế, Trung tâm học liệu - Đại học Cần Thơ, Thư viện trường Đại học RMIT tại Hà Nội, ngoài bàn lưu thông tài liệu (quản lý việc mượn và trả tài liệu) họ đã tổ chức được bàn tham khảo là nơi tiếp nhận và trả lời bất cứ yêu cầu tin nào của người đọc.

          Bên cạnh việc chú ý đến nâng cao chất lượng cán bộ, đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại cho thư viện, ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của thư viện thì công tác đào tạo người dùng tin là nhiệm vụ được các thư viện hết sức quan tâm. Người đọc, người dùng tin là một trong bốn yếu tố cấu thành thư viện và theo chúng tôi người đọc là yếu tố “trung tâm”, điều này có nghĩa là tất cả các hoạt động của thư viện suy cho cùng cũng nhằm đáp ứng được các nhu cầu đọc và nhu cầu tin của người đọc, do vậy tất cả các hoạt động liên quan đến khâu phục vụ của thư viện đều cần được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu người đọc. Theo như mục tiêu của Hội thư viện Mỹ và Úc, các thư viện không chỉ có nhiệm vụ trong việc thoả mãn nhu cầu tin của người đọc mà còn có trách nhiệm trong việc giúp cho người đọc có được những kỹ năng thông tin (information literacies) bao gồm khả năng xác định nguồn tin, tìm kiếm và đánh giá chất lượng thông tin(2). Để từng bước nâng cao trình độ sử dụng thư viện, những năm gần đây các thư viện ở Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc đào tạo người dùng tin bằng nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể là các thư viện đại học đều mở các lớp hướng dẫn sử dụng thư viện vào đầu các năm học cho sinh viên mới. Đặc biệt Thư viện Trường Đại học RMIT đã thực hiện việc hướng dẫn tra cứu CSDL cho người đọc vào chiều thứ sáu hàng tuần; hai tuần có một workshop về đào tạo người đọc sử dụng thư viện và ngoài ra còn giúp người đọc tìm kiếm thông tin theo chuyên đề. Hơn nữa, để giúp đỡ trong việc tra cứu thông tin hay tự chọn tài liệu, nhiều thư viện như Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Trường Đại học RMIT… đã dán các chỉ dẫn ở đầu các giá sách, bên cạnh máy tính dùng tra cứu, phát tài liệu hướng dẫn cho sinh viên và gửi email cho họ hoặc thiết kế các giao diện màn hình dễ sử dụng có phần trợ giúp tra cứu tìm kiếm thông tin(4).

          5. Đề xuất giải pháp

          Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc trong những năm tới các thư viện nên tập trung đầu tư vào một số mặt then chốt như:

          + Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình quản lý người đọc và quản lý tài liệu. Các thư viện cần tăng cường mở nhiều phòng đọc tự chọn hơn nữa cùng với việc cho mượn tài liệu tự động, xem tình trạng sách, gia hạn, giữ chỗ, tham khảo qua mạng... Nếu như các thư viện tổ chức được dịch vụ mượn tài liệu tự động thì sẽ đem lại được rất nhiều lợi ích cho cả phía người đọc và thư viện, một mặt thông qua dịch vụ này thư viện sẽ giảm được số lượng cán bộ thủ thư phục vụ và làm thủ tục cho mượn, nâng cao được chất lượng, hiệu quả phục vụ trong các thư viện bằng cách loại bỏ các thao tác thủ công, đơn giản từ đó sẽ làm tăng vai trò và uy tín của thủ thư trước con mắt người đọc; mặt khác người đọc sẽ không mất nhiều thời gian trong việc chờ mượn tài liệu, họ có điều kiện được tiếp cận trực tiếp với sách, tự lựa chọn sách điều đó sẽ giúp người đọc nảy sinh nhiều nhu cầu đọc và hứng thú đọc mới, hấp dẫn với người đọc vì nó tăng tính trực quan.

          + Tăng cường đào tạo cán bộ thông tin có các kỹ năng sau:

          1. Nhận dạng đúng các yêu cầu tin

          2. Truy cập thông tin có hiệu quả và đúng theo pháp lý

          3. Đánh giá thông tin và nguồn tin có phê phán

          4. Hiểu được các vấn đề về văn hoá, chính trị, xã hội, pháp lý và kinh tế trong việc sử dụng thông tin

          5. Có kỹ năng giao tiếp hiệu quả với đa dạng nhóm người dùng tin

          6. Có khả năng tra cứu thông tin trên mạng, sử dụng thành thạo các công cụ tham khảo, bao quát được các nguồn tin

          7. Khả năng giải quyết các tình huống trong quá trình phục vụ người đọc.

          + Các thư viện nên tổ chức bàn tham khảo - mô hình mà hầu như tất cả các thư viện ở nước ngoài tổ chức. Hiện nay tại Việt Nam mô hình này đã được triển khai tại Trung tâm Học liệu - Đại học Huế và Cần Thơ, Đại học RMIT. Bàn tham khảo không chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn người đọc tra cứu cơ sở dữ liệu, sử dụng bộ máy tra cứu, hướng dẫn sử dụng thư viện của mình mà còn có nhiệm vụ tiếp nhận các loại yêu cầu tin (có thể yêu cầu tìm các tài liệu cụ thể, hoặc tìm theo chuyên đề, hoặc có thể là trả lời các số liệu thống kê, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn…).

          + Tăng cường công tác nghiên cứu nhu cầu tin định kỳ và thường xuyên xây dựng chương trình đào tạo người dùng tin hiệu quả.

          + Trong điều kiện cho phép các thư viện đại học nên xem xét mở một số phòng tự học, phòng thảo luận nhóm vệ tinh xung quanh phạm vi phòng đọc để tạo môi trường tự học cho sinh viên, trợ giúp đắc lực cho phương pháp giảng dạy mới tức là biến quá trình học thành quá trình tự học.

Tài liệu tham khảo

          1. Phạm Thế Khang. Nâng cao hiệu quả phục vụ bạn đọc của hệ thống thư viện công cộng // Công tác phục vụ bạn đọc của hệ thống thư viện công cộng: Kỷ yếu hội nghị . - Lạng sơn : TVQG, 2003 . - tr.12

          2. Alan Bundy. Overview in Australia and New Zealand information literacy framework : Principles, standards and practice . - ANZIIL, 2004 . - 2ed . - p3-9 

          3. James I. Wyer. The soul of the library . - New York : Public library, 1923 . - p3-8

          4. http://www.rmit.edu.vn/library . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006

          5. http://www.nlv.gov.vn . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006

          6. http://www.ctu.edu.vn/library . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006

          7. http://www.uct.edu.vn/thuvien . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006

          8. http://www.vista.gov.vn . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006

          9. http://www.lrc-hueuni.edu.vn/index.asp . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006

          10. https://nlv.gov.vn/Nghiep-vu-thu-vien/Nang-cao-chat-luong-cong-tac-phuc-vu-nguoi-doc.html

 


Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

Phương pháp để viết một kết luận của bài viết hiệu quả


1. Giới thiệu

          Phần kết luận của một bài viết là một phần nội dung không thể thiếu của một bài viết, thể hiện khái quát những khẳng định, những giá trị mang lại cho người đọc mà tác giả muốn truyền tải thông qua bài viết và được cấu trúc ở cuối bài viết.

          Phần kết luận cũng giống như chiếc nơ trên món quà được bọc cẩn thận. Nó kết nối và đóng gói mọi thứ với nhau và đánh bóng bài viết của tác giả, nên phần kết luận hết sức quan trọng trong một bài viết. Phần kết luận nên tóm gọn được mọi thứ trong bài viết với giọng điệu cần mạnh mẽ và hùng hồn. Chỉ cần chú ý một chút là tác giả đã có thể nâng tầm bài viết của mình với phần kết luận ấn tượng.

          Trên thực tế có nhiều dạng bài viết khác nhau như: bài báo, tiểu luận, luận văn, luận án, bài luận, tổng kết một chương sách,... sau đây gọi chung là "bài viết". Vậy làm thế nào để có một kết luận hay, mang lại cho người đọc thông tin hữu ích nhất? Với mong muốn giải đáp câu hỏi đó, bài viết này sẽ giới thiệu cho người đọc cách làm sao để viết được một phần kết luận hiệu quả, phù hợp, mang lại giá trị, hiệu quả và nâng tầm giá trị của bài viết tới người đọc. Phần 2 sẽ giới thiệu về cách tư duy, cách làm cơ bản để có được phần kết luận tốt; Phần 3 sẽ giới thiệu về cấu trúc, hành văn viết kết luận; những lỗi thường gặp được trình bày ở phần 4, Phần 5 sẽ trình bày ví dụ về viết kết luận hay và không hay để người đọc có thể cảm nhận và so sánh và cuối cùng là Kết luận của bài viết hướng dẫn này.

2. Động não về viết kết luận

1.     

 

 

2.1. Cần suy nghĩ về câu hỏi “Vậy thì sao?”

          Cách tốt nhất để viết phần kết luận chính là tưởng tượng ra câu hỏi “Vậy thì sao?” của người đọc khi họ tiếp cận bài viết của tác giả. Những câu hỏi mà người đọc có thể đặt ra khi tiếp cận bài viết, chẳng hạn như:

          - Tại sao tác giả lại viết về vấn đề này?

          - Có những gì liên quan đến vấn đề mà mình quan tâm?

          - Mình sẽ tiếp thu những gì từ bài viết của tác giả đã chia sẻ?

          - Vấn đề của bài viết có ích cho mình không?...

          Vậy thì tác giả nên viết gì ở phần kết luận để thuyết phục người đọc quan tâm đến ý tưởng mà vấn đề tác giả đề cập? 

          Tác giả tự hỏi bản thân câu hỏi “Vậy thì sao?” trong quá trình viết bài viết cũng có thể giúp tác giả đào sâu ý tưởng của bản thân. Để trả lời được câu hỏi này tác giả sẽ phải hình dung đến:

          - Khẳng định một cái gì đó từ bài viết;

          - Làm cho người đọc thấy được khẳng định đó là đúng, có độ tin cậy;

          - Sử dụng khẳng định đó để làm việc gì có ý nghĩa trong cuộc sống thực.

          Ngoài ra, tác giả cần liên tưởng đến ý nghĩa khoa học (nếu có) và ý nghĩa thực tiễn của bài viết.

 

2.2. Liệt kê những ý tưởng chính của bài viết

          Việt kê những ý tưởng chính của bài viết là việc mà tác giả đọc, rà soát toàn bộ bài viết từ trên xuống dưới, trích và viết ra giấy nháp những phần nội dung, ý chính đã viết trong bài viết, những khẳng định tương ứng với ý chính đó. Dùng danh sách liệt kê này để làm chất liệu cho viết các câu nội dung trong phần kết luận.

          Việc liệt kê ra được những ý tưởng chính của bài viết rất quan trọng, vì:

          - Giúp tác giả biết chính xác mình cần viết kết luận như thế nào.

          - Tránh được lỗi giới thiệu thông tin mới hay chủ đề mới ở phần kết luận.

          Tác giả không cần phải nhồi nhét mọi thứ vào phần kết luận mà chỉ nêu những thứ quan trọng.


 

 

2.3. Tìm kiếm chủ đề được giới thiệu ở đoạn đầu

          Phần kết luận có chủ đề tương tự với phần mở đầu cũng là một ý hay. Hãy thử "nâng tầm" chủ đề đó ở phần kết luận.

          Ví dụ, nếu tác giả mở đầu bài viết với ý tưởng "sự nhỏ bé của con người trong vũ trụ rộng lớn", tác giả có thể nhắc lại ý tưởng đó ở phần kết luận. Tuy nhiên, tác giả có thể mở rộng chủ đề này bằng cách bổ sung các ý khác như "khi trí tuệ của con người ngày một phát triển thì vũ trụ như thu nhỏ lại".


 

            Cân nhắc việc liên kết lý luận của tác giả vào một bối cảnh khác. 

          Cách tốt nhất để viết phần kết luận cho bài viết là mở rộng các vấn đề liên quan đến cuộc thảo luận đến bối cảnh “bức tranh lớn hơn”. Điều này sẽ giúp người đọc biết cách áp dụng lý luận của tác giả vào chủ đề khác, mở rộng mục đích của bài viết.

3. Kỹ thuật viết kết luận

 

3.1. Thực hiện viết kết luận theo cấu trúc

          Cấu trúc phần kết luật của bài viết có thể có nhiều cách thể hiện khác nhau tùy theo từng tác giả, nhưng thường gặp nhất là bao gồm những ý chính sau:

·          Câu chủ để nhắc lại mục đích của bài viết.

·          Phát biểu lại ý tưởng chính của bài viết, tóm tắt các ý chính, kết luận đưa ra của từng nội dung chính của bài viết.

·          Tóm tắt ngắn gọn các bằng chứng chứng minh kết luận đưa ra của bài viết.

·          Chỉ ra một hoặc hai điểm chính kết luận đưa ra là chính xác.

·          Cuối cùng phát biểu kết luận rằng vấn đề của bài viết đã được giải quyết.

          Không có quy tắc cứng nhắc nào quy định phần kết luận phải dài bao nhiêu câu, tùy thuộc vào loại bài viết là luận văn hay bài báo, bài viết mà độ dài của phần kết luận có thể khác nhau. Có hai kiểu viết phần kết luận:

          - Phần kết luận thường là một đoạn văn, có độ dài 5-7 câu tương ứng với những ý chính trong cấu trúc trên, mỗi ý một câu đối với bài viết là bài báo ngắn. Đối với những bài báo thông thường (5-10trang), nếu phần kết luận ngắn hơn 5-7 câu thì tác giả chưa tóm tắt đủ luận điểm, còn nhiều hơn thì nghĩa là tác giả huyên thuyên hơi nhiều.

          - Phần kết luận có thể dài hơn 1 đoạn văn, nhiều hơn 5-7 câu, tuy nhiên vẫn có những ý chính theo cấu trúc trên.

 

3.2. Tóm gọn một số điểm chính 

          Hãy thử lấy câu đầu tiên của các đoạn phần thân bài (câu chủ đề) và viết lại thành một đoạn 2, 3 câu tóm tắt được những điểm chính. Việc này sẽ củng cố lập luận, nhắc người đọc về vấn đề được đề cập trong bài viết.

          Tránh tóm tắt luận điểm giống hệt phần trên. Người đọc đã đọc toàn bộ bài viết. Tác giả không nhất thiết phải nhắc lại từng luận điểm một.

          Một cách viết thường dùng là liên kết các ý chính đã tóm tắt ở trên thành những câu kép, dùng các từ nối để liên kết các luận điểm lại với nhau. Làm được như thế thì phần kết luận tránh được sự lặp lại, mặt khác lại nâng tầm kiến thức thành sự tổng hợp, có ý nghĩa hơn trong quá trình vận dụng kết quả nhận định trong bài viết.

3.3. Nêu bật luận điểm của bài viết ở phần kết luận 

          Tác giả nên viết luận điểm chính thức của bài viết vào phần kết luận. Nếu người đọc đọc tới phần kết luận nhưng vẫn không biết luận điểm của bài là gì, thì tác giả vẫn chưa thành công trong việc truyền đạt ý tưởng tới họ.

          Hãy tìm một cách mới mẻ để nhắc lại luận điểm, sử dụng cách viết khác chẳng hạn. Tái khẳng định luận điểm nhưng vẫn dùng cách diễn đạt trước đó sẽ làm người đọc nhàm chán và không cung cấp được cái nhìn mới trong lập luận.

3.4. Viết chủ đề theo giọng điệu tự tin

            Tự tin ở đây có nghĩa là sử dụng từ chính xác (trái ngược với những từ cũ), dựa trên các luận cứ chắc chắn từ nguồn khác và tin tưởng vào khả năng viết của bản thân. Đừng xin lỗi vì ý tưởng hay dùng quá nhiều ngôn ngữ nặng nề.

          Ví dụ, thay vì viết "Đó là lý do tôi nghĩ Abraham Lincoln là Tổng thống Mỹ xuất sắc nhất trong thế kỷ 19" hãy nói "Đó là lý do Abraham Lincoln trở thành Tổng thống Mỹ xuất sắc nhất trong thế kỷ 19". Người đọc đã biết tác giả viết Lincoln là Tổng thống xuất sắc nhất, và tác giả cũng tin như vậy. Do đó dùng từ "Tôi nghĩ " nghe có vẻ thiếu tự tin.

          Đừng bao giờ viết những câu "Tôi có thể không phải là chuyên gia" hoặc "Ít nhất thì đây là ý kiến của tôi" vì nó làm giảm độ tin tưởng của bài viết.

3.5. Kết luận với văn phong hoa mỹ

          Câu cuối cùng nên nhẹ nhàng, có chủ điểm và khiêu khích. Nói thì dễ hơn làm. Nhưng hãy cứ bắt đầu với việc minh họa chủ đề chính của bài viết. Tự hỏi bản thân Chủ đề bài viết của tôi là gì, tôi đang đề cập đến vấn đề gì? rồi từ đó khai triển dần.

          Hãy viết câu cuối với văn phong dí dỏm và một chút phóng khoáng về nội dung bài viết. Như vậy phần kết luận sẽ thu hút.

          Bộc lộ cảm xúc. Bài viết gần như rất hợp lý nhưng vẫn còn thiếu một chút cảm xúc. Đó là lý do tác giả nên đặt cảm xúc vào phần kết luận. Hãy làm đúng cách và nó sẽ giúp bài viết của tác giả có tâm hồn. Chỉ cần đảm bảo phần kết luận vẫn có giọng điệu phù hợp với phần còn lại của bài viết.

          Thêm phần kêu gọi hành động (không nên lạm dụng). Nếu bài viết với mục đích làm mọi người thay đổi, vậy việc bổ sung phần kêu gọi hành động sẽ là công cụ hữu ích để làm nổi bật phần nội dung. Nhưng đừng lạm dụng: Nếu dùng nhầm văn cảnh (một bài bình luận, hoặc lý luận) sẽ gây ra hậu quả khôn lường.

4. Nên và không nên sử dụng trong khi viết kết luận

 

4.1. Một số cụm từ không nên sử dụng để bắt đầu kết luận

Bắt đầu của một kết luận nên tránh các cụm từ “Kết luận lại”, “Tóm lại” hoặc “Để kết thúc”. Bởi vì chúng được sử dụng quá thường xuyên nên trở nên khô cứng và sáo rỗng.

4.2. Đừng chỉ tái khẳng định luận điểm

          Một vấn đề thường gặp ở phần kết luận là mọi người chỉ tái khẳng định luận điểm theo cách thông thường và tóm tắt lại những gì đã trình bày. Việc này không tạo lý do chính đáng để người đọc đọc phần kết luận vì họ đã biết trước những gì tác giả định viết.

          Thay vào đó, hãy đưa người đọc lên “một tầm cao mới” trong phần kết luận, hoặc cung cấp một số thông tin khác về ý tưởng ban đầu.

4.3. Không nên trích dẫn

          Thông thường tác giả không cần trích dẫn hay phân tích ở phần kết luận - hãy làm thế ở phần thân bài. Kết luận là phần đúc kết mọi thứ, không phải là phần giới thiệu thông tin mới.

4.4. Không dùng ngôn từ rườm rà

          Đừng dùng quá nhiều từ ngữ bay bổng trong kết luận. Tác giả muốn phần kết luận phải đọc được và cũng dễ hiểu, không cứng nhắc và nhàm chán. Tốt hơn nên dùng ngôn ngữ rõ ràng, súc tích thay vì viết vòng vo với quá nhiều từ dài dòng.

          Không dùng "Thứ nhất", "Thứ hai", "Thứ ba",...  để đánh dấu luận điểm. Hãy làm rõ tác giả đang nói về vấn đề gì và có bao nhiêu luận điểm.

4.5. Không thêm thông tin mới vào kết luận

          Giờ không phải lúc để giới thiệu ý tưởng hay nội dung mới. Điều này sẽ làm mất tập trung vào phần lập luận ban đầu và làm người đọc nhầm lẫn. Đừng làm mọi thứ rối tung, hãy viết về nội dung và luận điểm mà tác giả nghĩ tới sau khi tiến hành công đoạn phân tích cần thiết.Đừng tập trung vào một điểm nhỏ hay một vấn đề trong bài viết. 

          Phần kết luận không phải là nơi để nêu lại một chủ đề nhỏ của bài viết. Trên thực tế, đây là lúc để khái quát lại toàn bộ nội dung. Đảm bảo rằng bài viết đã tập trung vào luận điểm, chứ không đi lệch theo một hướng. Những lời này không phải cách hay để bắt đầu một sự chuyển đổi.

4.6. Luôn rà soát lại sau khi viết kết luận

          Luôn nhớ đọc lại bài viết sau khi hoàn thành. Kiểm tra lỗi ngữ pháp, chính tả và dấu câu. Có những trường hợp xảy ra, sau khi viết kết luận, mới phát hiện những sai sót, khiếm khuyết trong phần nội dung.

          Luôn đảm bảo phần thông tin liên quan ở phần kết luận. Đồng thời cũng nhắc lại luận điểm để người đọc hiểu được lý do tác giả chọn đề tài.

5. Ví dụ

5.1. Ví dụ viết kết luận tốt

          Khi viết kết luận của một bài báo khoa học với tiêu đề là "Một thuật toán và công cụ hiệu quả để phát hiện các lỗ hổng website nguy hiểm", tác giả viết đoạn kết luận bao gồm 5 câu (thứ tự câu được viết trong ngoặc) như sau:

          (1) Trong bài viết này, chúng tôi đã đề cập đến một số lỗ hổng bảo mật phổ biến trên web, chẳng hạn như SQL tiêm, XSS, BoF, FI, SI. (2) Qua đó, chúng tôi đề xuất một thuật toán và cải tiến để nâng cao hiệu quả phát hiện các lỗ hổng Website. (3) Các thuật toán được sử dụng để xây dựng công cụ quét là UTLWebScanner, thực hiện kiểm tra và so sánh với một số chương trình phần mềm thương mại có chức năng tương tự như Acunetix, Nessus và Arachni trên các bộ dữ liệu tiêu chuẩn. (4) Kết quả cho thấy công cụ của chúng tôi có tỷ lệ phát hiện lỗi cao trên các Website và có ưu điểm là thời gian quét nhanh hơn so với các công cụ chúng tôi sử dụng. (5) Để phát triển hơn nữa, chúng tôi sẽ phát triển cơ sở dữ liệu của phần mềm, áp dụng các kỹ thuật học máy để tăng hiệu suất quét và đưa ra dự đoán về vị trí của lỗ hổng để tập trung tìm kiếm.

          Chúng ta thấy kết cấu của đoạn kết luận trên như sau:

          - Câu (1) và (2): Phát biểu lại mục đích của bài báo là đề xuất một thuật toán cải tiến phát hiện lỗ hổng bảo mật, đồng thời cũng khái quát nêu một phần nội dung chính của bài báo đã triển khai là "đề cập đến một số lỗ hổng bảo mật phổ biến".

          - Câu (3) tóm tắt nội dung chính của phương pháp tiến hành trong bài báo, đây là kết quả chính của bài báo là xây dựng một công cụ quét.

          - Câu (4) khẳng định là kết quả nêu ở câu (3) là có độ tin cậy, đã chứng minh trong nội dung chính của bài báo.

          - Câu (5) Khẳng định và hướng mở rộng nâng tầm kết quả bài báo.

5.2. Ví dụ viết kết luận chưa tốt

          Khi viết kết luận của một luận văn thạc sĩ với tên đề tài là "Phân  tích  tự  động  các Website để  phát hiện lỗ  hổng tiêm nhiễm SQL  và XSS", tác giả luận văn đã viết kết luận của luận văn, tuy cơ bản đáp ứng được một số thông tin cần có của một kết luận nhưng cách viết chưa thực sự tốt, mang lại những ấn tượng cho người đọc. Cụ thể kết luận được viết như sau:

          "(1) Qua một thời gian nghiên cứu, được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, các đồng nghiệp, gia đình, đến nay luận văn “Phân tích tự động các Website để phát hiện lỗ hổng tiêm nhiễm SQL và XSS ” cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra:

          (2) + Nghiên cứu các lỗ hổng an ninh ứng dụng web, phương pháp khai thác lỗ hổng an ninh SQLi, XSS với từng loại CSDL, cách thức bypass việc lọc các ký tự đầu vào do người lập trình thiết lập.

          (3) + Xây dựng phần mềm có các chức năng: crawler, phát hiện và khai thác lỗ hổng an ninh SQLi và XSS, dò quét các file nhạy cảm, đường dẫn đăng nhập, brute force tài khoản đăng nhập FTP và RDP.

          (4) + Tiến hành xử lý song song, lập lịch có thể thực hiện dò quét nhiều mục tiêu đồng thời trên cả 05 chức năng là: crawler, dò quét SQLi, XSS, tìm file nhạy cảm, đường dẫn đăng nhập.

          (5) + Phần mềm này có khả năng phát hiện và khai thác tốt một số mục tiêu mà các phần mềm quét hiện tại không thực hiện được.

          (6) Hướng phát triển: Trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện các chức năng như: nghiên cứu bổ sung thêm các giải pháp bypass nâng cao trong khai thác lỗ hổng SQLi; giải pháp bypass ký tự metadata trong khai thác XSS, xây dựng bộ từ điển tương đối đầy đủ brute force tài khoản FTP, RDP; thử nghiệm với nhiều website đầu vào để có thể khai thác nhiều nhất các dạng SQLi và XSS. Ngoài ra,một số tính năng mới cũng sẽ được bổ sung thêm như crack mật khẩu, cài mã độc lên máy chủ, truy cập file hệ thống…, phát triển phần mềm thành công cụ kiểm tra lỗ hổng an ninh ứng dụng web tương đối hoàn thiện.".

          Nhận xét: căn cứ vào những cấu trúc và những điều nên và không nên trong khi viết kết luận, rõ ràng cách viết của tác giả là chưa được tốt. Chẳng hạn:

          - Câu (1) "Qua một thời gian..." mở đầu cho phần kết luận là không cần thiết, và nội dung của nó nằm ngoài phạm vi kết luận.

          - Câu (2) "Nghiên cứu...", kể về công việc nghiên cứu là không nên mà phải khẳng định kiến thức thu được đã trình bày sau khi nghiên cứu.

          - Câu (3) "Xây dựng...", kể về về việc xây dựng phần mềm là không nên mà phải khẳng định phần mềm đã xây dựng có khả năng gì...

          - Câu (4) nói về cách làm để xây dựng ra phần mềm ở (3), minh họa cho phần mềm ở (3) là tốt.

          - Câu (5) nói về minh chứng cho khẳng định phần mềm ở (3) là tốt.

          - Câu (6) hướng mở rộng của đề tài.

6. Kết luận

          Viết một kết luận hiệu quả trong khi viết tiểu luận, luận văn, bài báo, bài viết là hết sức cần thiết cho bất kỳ một tác giả nào, tuy nhiên không phải tác giả nào cũng có những kỹ năng, kỹ thuật để viết phần kết luận hiệu quả.  Để viết kết luận tốt cần chú ý những kỹ thuật, công việc cơ  bản như: đặt câu hỏi "vậy thì sao?" để hướng tới cách viết tốt nhất; đọc kỹ toàn bộ bài viết và viết tóm tắt những ý chính của toàn bộ bài viết; khẳng định những ý chính đưa ra là xác đáng, chính xác. Ngoài ra cũng nên tránh những lỗi cơ bản có thể mắc phải khi viết kết luận. Cấu trúc và cách viết đã được phân tích qua các ví dụ viết tốt và viết chưa tốt. Người đọc dễ dàng tiếp cận và vận dụng những kỹ năng, phương pháp viết kết luận đã được giới thiệu của bài viết. Để tăng thêm kỹ năng viết, người đọc nên kiểm tra lại, rà soát lại những kết luận đã viết của mình trong các bài viết trước đây so với những khuyến cáo trong bài viết này dễ thấy rằng việc viết đó đã hiệu quả hay chưa, từ đó sẽ cải thiện kiến thức và kỹ năng viết kết luận của độc giả.

Tài liệu tham khảo: https://www.wikihow.vn/Vi%E1%BA%BFt-K%E1%BA%BFt-lu%E1%BA%ADn-cho-B%C3%A0i-Ti%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADn


https://www.wikihow.com/Write-a-Conclusion-for-a-Research-Paper