Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

Mua sắm tài sản công theo hình thức tập trung

Nguồn: Sưu tầm Internet. Sơ tài chính Ninh Bình.

 Bước 1. Tiếp nhận văn bản

Tất cả văn bản của các cơ quan, đơn vị có liên quan đến việc thực hiện mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tập trung (bao gồm cả văn bản chuyển qua đường bưu điện và văn bản do phòng chuyên môn tiếp nhận) đều phải được chuyển sang cho cán bộ văn thư làm các thủ tục theo quy trình về xử lý công văn đến.

Sau khi tiếp nhận văn bản về mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tập trung (sau đây gọi là văn bản MSTT) do Giám đốc phân công, Trưởng phòng phân công cán bộ thực hiện (sau đây gọi là CB).

Bước 2. Giải quyết công việc

1.Tổng hợp nhu cầu mua sắm

Tất cả tài sản thuộc danh mục mua sắm tài sản tập trung cấp tỉnh do các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đề nghị mua sắm theo phương thức tập trung nộp đúng thời hạn quy định đều phải được tổng hợp vào Bảng tổng hợp nhu cầu mua sắm tập trung theo mẫu số 03/TSC-MSTT ban hành kèm theo Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 để lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu.

Trường hợp đơn vị gửi đăng ký sau thời hạn quy định, CB dự thảo văn bản trả lời đơn vị báo cáo lãnh đạo phòng trình Phó Giám đốc chuyên quản xem xét, ký nháy vào văn bản sau đó trình Giám đốc xem xét, ký ban hành văn bản.

Trên cơ sở kết quả tổng hợp nhu cầu mua sắm tập trung toàn tỉnh, CB thực hiện dự thảo công văn đề nghị các cơ quan có liên quan thực hiện công khai nhu cầu mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tập trung (công khai trên Cổng thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình, Website của Sở Tài chính và Trang thông tin điện tử về tài sản công).

  1. Lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu

Trên cơ sở Bảng tổng hợp nhu cầu mua sắm tập trung thực hiện phân chia nhu cầu mua sắm tài sản của các cơ quan, đơn vị thành các gói thầu và lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu mua sắm tập trung theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

  1. Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu; đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng; thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu

Việc chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu; đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng; thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

Trường hợp cần thiết có thể đề nghị lãnh đạo Trung tâm xem xét cho phép thuê tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp để tiến hành lựa chọn nhà thầu cung cấp tài sản theo quy định của pháp luật về đấu thầu và các văn bản có liên quan.

  1. Ký kết thỏa thuận khung về mua sắm tập trung

Trong trường hợp mua sắm tập trung theo cách thức ký thỏa thuận khung, trên cơ sở kết quả lựa chọn nhà thầu được phê duyệt, chủ đầu tư và nhà thầu trúng thầu ký kết thỏa thuận khung mua sắm tập trung.

Sau khi ký kết thỏa thuận khung, cán bộ giao phụ trách trực tiếp công tác tổng hợp mua sắm tập trung có trách nhiệm thực hiện công tác công khai và thông báo:

– Đăng tải danh sách các nhà thầu được lựa chọn, thỏa thuận khung đã ký kết, tài liệu mô tả tài sản, mẫu hợp đồng mua sắm trên Trang thông tin điện tử về tài sản công hoặc Hệ thống giao dịch điện tử về tài sản công, Cổng thông tin điện tử của tỉnh và website của Sở Tài chính.

– Gửi Thông báo đến các đơn vị đầu mối, đơn vị đăng ký mua sắm tập trung về Thỏa thuận khung MSTT.

Bước 3. Thực hiện Thỏa thuận khung MSTT

  1. Đơn vị sử dụng tài sản ký kết hợp đồng mua sắm tài sản;
  2. Nhà thầu bàn giao tài sản cho đơn vị sử dụng tài sản;
  3. Hai bên nghiệm thu, thanh lý hợp đồng mua sắm tài sản

4.- Đơn vị sử dụng tài sản thanh toán tiền mua sắm tài sản cho nhà thầu

  1. Nhà thầu thực hiện bảo hành, bảo trì tài sản.

Việc ký kết hợp đồng mua sắm tài sản; thanh toán tiền mua sắm tài sản; Bàn giao, tiếp nhận tài sản; quyết toán, thanh lý hợp đồng mua sắm tài sản; bảo hành, bảo trì tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tập trung.

Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2020

Tóm tắt ý chính là cách hiểu nội dung nhanh nhất một bài viết.

Trong quá trình tìm hiểu và viết bài cho hội thảo thư viện (Tháng 8/2020) mình vô tình đọc được bài viết trên mạng với tiêu đề "Nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc", đọc kỹ thì tác giả viết khá có cấu trúc, chặt chẽ về mặt bố cục. Tuy nhiên cách viết còn chưa thể hiện cấu trúc, làm cho người đọc dễ dàng hiểu hơn về bài viết. Những chữ màu đỏ là mình thêm vào với ý là tóm tắt nội dung. Qua đó chúng ta thấy rõ cấu trúc bài viết, hiện còn thiếu phần mở đầu, phần kết luận chưa có. Dưới đây là toàn văn bài viết với những ý chính đã được đánh mục thêm vào.



Nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc

Trương Đại Lượng - Nguyễn Hữu Nghĩa

Khoa Thư viện Thông tin, Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội 

(Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam)

 

          1. Khải niệm về công tác phục vụ người đọc

          Công tác người đọc hay việc tổ chức phục vụ tài liệu cho người đọc là một hoạt động của thư viện nhằm thúc đẩy, phát triển và thoả mãn nhu cầu, hứng thú đọc tài liệu thông qua việc tuyên truyền, hướng dẫn và cung cấp tài liệu dưới nhiều hình thức. Công tác người đọc bao gồm các hình thức tổ chức và phương pháp phục vụ người đọc ở trong và ngoài thư viện. Đồng thời công tác người đọc còn là thước đo hiệu quả luân chuyển tài liệu và tác dụng của nó trong đời sống.

          2. Ý nghĩa tầm quan trọng của công tác phục vụ người đọc

          Với ý nghĩa đó “Công tác người đọc luôn được coi là công tác quan trọng nhất của thư viện. Bởi vì, thông qua công tác này vốn tài liệu quý giá của thư viện mới được sử dụng có hiệu quả, mới phát huy được tác dụng trong phát triển mọi mặt của đất nước, từ đó vị trí, vai trò xã hội của thư viện mới được khẳng định” (1). Trong thực tiễn hoạt động của các thư viện và cơ quan thông tin cho thấy công tác người đọc có rất nhiều vai trò khác nhau song nổi bật là công tác người đọc được ví như “chiếc cầu” nối liền người đọc với vốn tài liệu thông qua vai trò của người cán bộ thư viện. Thông qua công tác người đọc vốn tài liệu của thư viện được khai thác, sử dụng và thư viện có thể tìm hiểu và nắm được nhu cầu đọc, nhu cầu tin của người đọc và chính điều đó là cơ sở của các hoạt động khác trong thư viện.

          3. Khảo sát, đánh giá hiện trạng về công tác phục vụ bạn đọc

          Nhận thức được đầy đủ vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác phục vụ người đọc trong thư viện nói riêng và trong xã hội nói chung, trong những năm gần đây công tác phục vụ người đọc của các thư viện ở nước ta đã và đang đạt được nhiều tiến bộ trên các mặt hoạt động:

          Trước đây, hầu hết các Thư viện Việt Nam như: các thư viện công cộng, thư viện chuyên ngành hoặc các thư viện trường đại học đều chọn hình thức phục vụ thông qua phiếu yêu cầu. Ngày nay với sự trợ giúp của các thiết bị kiểm soát tài liệu như camera, cổng từ,… để rút ngắn thời gian tra tìm tài liệu, chờ mượn tài liệu, giảm bớt công sức của cán bộ thư viện và đồng thời kích thích nhu cầu đọc, nhu cầu tin, tạo điều kiện cho người đọc được tiếp xúc trực tiếp với tài liệu, nhiều thư viện đã chuyển sang hình thức phục vụ tự chọn. Đây là hình thức phục vụ có nhiều ưu điểm, được áp dụng phổ biến trong thư viện của các nước tiên tiến, rất phù hợp với việc lưu thông tài liệu (mượn và trả tài liệu) trong các thư viện hiện đại có sử dụng phần mềm quản trị thư viện tích hợp cho phép quản lý người đọc và tài liệu bằng mã vạch, quản lý việc mượn, trả tài liệu qua đầu đọc (barcode scanner) cầm tay hay tự động.

          Để thoả mãn nhu cầu tin của người đọc, những năm gần đây ngoài việc duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ đọc và mượn tài liệu, các thư viện đã và đang phát triển nhiều dạng dịch vụ như dịch vụ tra cứu (tham khảo – reference service), tham khảo số (digital reference service), cung cấp thông tin chọn lọc, tra cứu trực tuyến, sử dụng tài liệu điện tử với các CSDL toàn văn (tài liệu số hoá), nhân bản tài liệu, khai thác internet, giải đáp thông tin qua điện thoại, truyền tệp,… Ví dụ như Thư viện Quốc gia Việt Nam, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia,        Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Học liệu - Đại học Huế, Trung tâm học liệu - Đại học Cần Thơ,… đã cho phép người đọc tra cứu CSDL thư mục từ xa; Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia Việt Nam, Thư viện Đại học RMIT cho phép người đọc khai thác tài liệu toàn văn trên mạng. Thư viện tỉnh Cần Thơ, Thư viện TP. Hồ Chí Minh đang cung cấp dịch vụ giải đáp thông tin qua điện thoại.

          Hơn nữa, ngày nay các thư viện đã nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông vào quản lý các hoạt động của thư viện, trong đó có hoạt động quản lý người đọc và lưu thông tài liệu. Phần mềm CDS/ISIS đã được các thư viện Việt Nam ứng dụng từ lâu, nhưng phần mềm này chỉ cho phép chúng ta quản lý và tra cứu tài liệu. Đến nay chúng ta đã sử dụng nhiều phần mềm tích hợp quản trị thư viện khác nhau như Libol, Ilib, và một số phần mềm của nước ngoài để quản lý việc lưu thông tài liệu và bạn đọc. Cụ thể các phần mềm này đã giải quyết được một số công việc như: ghi mượn và trả tài liệu tự động hoặc qua đầu đọc (barcode scanner) cầm tay, thống kê tài liệu, thống kê lượt đọc, quản lý người đọc qua việc mượn trả như sách quá hạn, gia hạn, đặt trước, giữ lại, cấp phát và gia hạn thẻ tại chỗ hoặc từ xa...

          4. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác phục vụ bạn đọc

          Để nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc chúng ta không thể phủ nhận vai trò của người cán bộ thư viện. Có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau về vai trò của người cán bộ thư viện, có những học giả cho rằng trong thư viện, máy móc kỹ thuật mới là điều quyết định sự thành công của thư viện, co quan điểm lại cho rằng trong thư viện người cán bộ (thủ thư) mới là quan trọng. James I. Wyer một học giả Mỹ ngay từ năm 1923 đã cho rằng người cán bộ thư viện chính là linh hồn của thư viện. Thực tiễn cho chúng ta thấy ngày nay với sự xuất hiện của một số loại hình thư viện mới như thư viện điện tử, thư viện ảo... song vai trò của người cán bộ thủ thư không mất đi mà trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đòi hỏi người cán bộ thủ thư luôn phải nâng cao trình độ thì mới có khả năng đáp ứng được các yêu cầu phức tạp và đa dạng của người đọc, người dùng tin. Nếu như trong các thư viện truyền thống, cán bộ thủ thư giữ vai trò chính trong việc trực tiếp tiếp nhận yêu cầu và lấy tài liệu phục vụ thì trong các thư viện ảo người thủ thư tiếp nhận, trả lời các yêu cầu tin, và giao tiếp với người đọc, người dùng tin qua mạng với dịch vụ tham khảo ảo 24/7, hoặc qua điện thoại... Ngày nay do nhận thức đúng đắn về vai trò của cán bộ thủ thư, nhiều thư viện luôn ưu tiên những cán bộ trẻ, năng động, có kỹ năng tra cứu thông tin, có phương pháp trao đổi với người đọc tốt phục vụ ở tuyến trước (phục vụ người đọc). Đặc biệt tại một số thư viện như Trung tâm Học liệu - Đại học Huế, Trung tâm học liệu - Đại học Cần Thơ, Thư viện trường Đại học RMIT tại Hà Nội, ngoài bàn lưu thông tài liệu (quản lý việc mượn và trả tài liệu) họ đã tổ chức được bàn tham khảo là nơi tiếp nhận và trả lời bất cứ yêu cầu tin nào của người đọc.

          Bên cạnh việc chú ý đến nâng cao chất lượng cán bộ, đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại cho thư viện, ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của thư viện thì công tác đào tạo người dùng tin là nhiệm vụ được các thư viện hết sức quan tâm. Người đọc, người dùng tin là một trong bốn yếu tố cấu thành thư viện và theo chúng tôi người đọc là yếu tố “trung tâm”, điều này có nghĩa là tất cả các hoạt động của thư viện suy cho cùng cũng nhằm đáp ứng được các nhu cầu đọc và nhu cầu tin của người đọc, do vậy tất cả các hoạt động liên quan đến khâu phục vụ của thư viện đều cần được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu người đọc. Theo như mục tiêu của Hội thư viện Mỹ và Úc, các thư viện không chỉ có nhiệm vụ trong việc thoả mãn nhu cầu tin của người đọc mà còn có trách nhiệm trong việc giúp cho người đọc có được những kỹ năng thông tin (information literacies) bao gồm khả năng xác định nguồn tin, tìm kiếm và đánh giá chất lượng thông tin(2). Để từng bước nâng cao trình độ sử dụng thư viện, những năm gần đây các thư viện ở Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc đào tạo người dùng tin bằng nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể là các thư viện đại học đều mở các lớp hướng dẫn sử dụng thư viện vào đầu các năm học cho sinh viên mới. Đặc biệt Thư viện Trường Đại học RMIT đã thực hiện việc hướng dẫn tra cứu CSDL cho người đọc vào chiều thứ sáu hàng tuần; hai tuần có một workshop về đào tạo người đọc sử dụng thư viện và ngoài ra còn giúp người đọc tìm kiếm thông tin theo chuyên đề. Hơn nữa, để giúp đỡ trong việc tra cứu thông tin hay tự chọn tài liệu, nhiều thư viện như Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Trường Đại học RMIT… đã dán các chỉ dẫn ở đầu các giá sách, bên cạnh máy tính dùng tra cứu, phát tài liệu hướng dẫn cho sinh viên và gửi email cho họ hoặc thiết kế các giao diện màn hình dễ sử dụng có phần trợ giúp tra cứu tìm kiếm thông tin(4).

          5. Đề xuất giải pháp

          Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng công tác phục vụ người đọc trong những năm tới các thư viện nên tập trung đầu tư vào một số mặt then chốt như:

          + Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình quản lý người đọc và quản lý tài liệu. Các thư viện cần tăng cường mở nhiều phòng đọc tự chọn hơn nữa cùng với việc cho mượn tài liệu tự động, xem tình trạng sách, gia hạn, giữ chỗ, tham khảo qua mạng... Nếu như các thư viện tổ chức được dịch vụ mượn tài liệu tự động thì sẽ đem lại được rất nhiều lợi ích cho cả phía người đọc và thư viện, một mặt thông qua dịch vụ này thư viện sẽ giảm được số lượng cán bộ thủ thư phục vụ và làm thủ tục cho mượn, nâng cao được chất lượng, hiệu quả phục vụ trong các thư viện bằng cách loại bỏ các thao tác thủ công, đơn giản từ đó sẽ làm tăng vai trò và uy tín của thủ thư trước con mắt người đọc; mặt khác người đọc sẽ không mất nhiều thời gian trong việc chờ mượn tài liệu, họ có điều kiện được tiếp cận trực tiếp với sách, tự lựa chọn sách điều đó sẽ giúp người đọc nảy sinh nhiều nhu cầu đọc và hứng thú đọc mới, hấp dẫn với người đọc vì nó tăng tính trực quan.

          + Tăng cường đào tạo cán bộ thông tin có các kỹ năng sau:

          1. Nhận dạng đúng các yêu cầu tin

          2. Truy cập thông tin có hiệu quả và đúng theo pháp lý

          3. Đánh giá thông tin và nguồn tin có phê phán

          4. Hiểu được các vấn đề về văn hoá, chính trị, xã hội, pháp lý và kinh tế trong việc sử dụng thông tin

          5. Có kỹ năng giao tiếp hiệu quả với đa dạng nhóm người dùng tin

          6. Có khả năng tra cứu thông tin trên mạng, sử dụng thành thạo các công cụ tham khảo, bao quát được các nguồn tin

          7. Khả năng giải quyết các tình huống trong quá trình phục vụ người đọc.

          + Các thư viện nên tổ chức bàn tham khảo - mô hình mà hầu như tất cả các thư viện ở nước ngoài tổ chức. Hiện nay tại Việt Nam mô hình này đã được triển khai tại Trung tâm Học liệu - Đại học Huế và Cần Thơ, Đại học RMIT. Bàn tham khảo không chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn người đọc tra cứu cơ sở dữ liệu, sử dụng bộ máy tra cứu, hướng dẫn sử dụng thư viện của mình mà còn có nhiệm vụ tiếp nhận các loại yêu cầu tin (có thể yêu cầu tìm các tài liệu cụ thể, hoặc tìm theo chuyên đề, hoặc có thể là trả lời các số liệu thống kê, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn…).

          + Tăng cường công tác nghiên cứu nhu cầu tin định kỳ và thường xuyên xây dựng chương trình đào tạo người dùng tin hiệu quả.

          + Trong điều kiện cho phép các thư viện đại học nên xem xét mở một số phòng tự học, phòng thảo luận nhóm vệ tinh xung quanh phạm vi phòng đọc để tạo môi trường tự học cho sinh viên, trợ giúp đắc lực cho phương pháp giảng dạy mới tức là biến quá trình học thành quá trình tự học.

Tài liệu tham khảo

          1. Phạm Thế Khang. Nâng cao hiệu quả phục vụ bạn đọc của hệ thống thư viện công cộng // Công tác phục vụ bạn đọc của hệ thống thư viện công cộng: Kỷ yếu hội nghị . - Lạng sơn : TVQG, 2003 . - tr.12

          2. Alan Bundy. Overview in Australia and New Zealand information literacy framework : Principles, standards and practice . - ANZIIL, 2004 . - 2ed . - p3-9 

          3. James I. Wyer. The soul of the library . - New York : Public library, 1923 . - p3-8

          4. http://www.rmit.edu.vn/library . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006

          5. http://www.nlv.gov.vn . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006

          6. http://www.ctu.edu.vn/library . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006

          7. http://www.uct.edu.vn/thuvien . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006

          8. http://www.vista.gov.vn . - tra cứu ngày 25 tháng 11 năm 2006

          9. http://www.lrc-hueuni.edu.vn/index.asp . - tra cứu ngày 24 tháng 11 năm 2006

          10. https://nlv.gov.vn/Nghiep-vu-thu-vien/Nang-cao-chat-luong-cong-tac-phuc-vu-nguoi-doc.html

 


Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

Phương pháp để viết một kết luận của bài viết hiệu quả


1. Giới thiệu

          Phần kết luận của một bài viết là một phần nội dung không thể thiếu của một bài viết, thể hiện khái quát những khẳng định, những giá trị mang lại cho người đọc mà tác giả muốn truyền tải thông qua bài viết và được cấu trúc ở cuối bài viết.

          Phần kết luận cũng giống như chiếc nơ trên món quà được bọc cẩn thận. Nó kết nối và đóng gói mọi thứ với nhau và đánh bóng bài viết của tác giả, nên phần kết luận hết sức quan trọng trong một bài viết. Phần kết luận nên tóm gọn được mọi thứ trong bài viết với giọng điệu cần mạnh mẽ và hùng hồn. Chỉ cần chú ý một chút là tác giả đã có thể nâng tầm bài viết của mình với phần kết luận ấn tượng.

          Trên thực tế có nhiều dạng bài viết khác nhau như: bài báo, tiểu luận, luận văn, luận án, bài luận, tổng kết một chương sách,... sau đây gọi chung là "bài viết". Vậy làm thế nào để có một kết luận hay, mang lại cho người đọc thông tin hữu ích nhất? Với mong muốn giải đáp câu hỏi đó, bài viết này sẽ giới thiệu cho người đọc cách làm sao để viết được một phần kết luận hiệu quả, phù hợp, mang lại giá trị, hiệu quả và nâng tầm giá trị của bài viết tới người đọc. Phần 2 sẽ giới thiệu về cách tư duy, cách làm cơ bản để có được phần kết luận tốt; Phần 3 sẽ giới thiệu về cấu trúc, hành văn viết kết luận; những lỗi thường gặp được trình bày ở phần 4, Phần 5 sẽ trình bày ví dụ về viết kết luận hay và không hay để người đọc có thể cảm nhận và so sánh và cuối cùng là Kết luận của bài viết hướng dẫn này.

2. Động não về viết kết luận

1.     

 

 

2.1. Cần suy nghĩ về câu hỏi “Vậy thì sao?”

          Cách tốt nhất để viết phần kết luận chính là tưởng tượng ra câu hỏi “Vậy thì sao?” của người đọc khi họ tiếp cận bài viết của tác giả. Những câu hỏi mà người đọc có thể đặt ra khi tiếp cận bài viết, chẳng hạn như:

          - Tại sao tác giả lại viết về vấn đề này?

          - Có những gì liên quan đến vấn đề mà mình quan tâm?

          - Mình sẽ tiếp thu những gì từ bài viết của tác giả đã chia sẻ?

          - Vấn đề của bài viết có ích cho mình không?...

          Vậy thì tác giả nên viết gì ở phần kết luận để thuyết phục người đọc quan tâm đến ý tưởng mà vấn đề tác giả đề cập? 

          Tác giả tự hỏi bản thân câu hỏi “Vậy thì sao?” trong quá trình viết bài viết cũng có thể giúp tác giả đào sâu ý tưởng của bản thân. Để trả lời được câu hỏi này tác giả sẽ phải hình dung đến:

          - Khẳng định một cái gì đó từ bài viết;

          - Làm cho người đọc thấy được khẳng định đó là đúng, có độ tin cậy;

          - Sử dụng khẳng định đó để làm việc gì có ý nghĩa trong cuộc sống thực.

          Ngoài ra, tác giả cần liên tưởng đến ý nghĩa khoa học (nếu có) và ý nghĩa thực tiễn của bài viết.

 

2.2. Liệt kê những ý tưởng chính của bài viết

          Việt kê những ý tưởng chính của bài viết là việc mà tác giả đọc, rà soát toàn bộ bài viết từ trên xuống dưới, trích và viết ra giấy nháp những phần nội dung, ý chính đã viết trong bài viết, những khẳng định tương ứng với ý chính đó. Dùng danh sách liệt kê này để làm chất liệu cho viết các câu nội dung trong phần kết luận.

          Việc liệt kê ra được những ý tưởng chính của bài viết rất quan trọng, vì:

          - Giúp tác giả biết chính xác mình cần viết kết luận như thế nào.

          - Tránh được lỗi giới thiệu thông tin mới hay chủ đề mới ở phần kết luận.

          Tác giả không cần phải nhồi nhét mọi thứ vào phần kết luận mà chỉ nêu những thứ quan trọng.


 

 

2.3. Tìm kiếm chủ đề được giới thiệu ở đoạn đầu

          Phần kết luận có chủ đề tương tự với phần mở đầu cũng là một ý hay. Hãy thử "nâng tầm" chủ đề đó ở phần kết luận.

          Ví dụ, nếu tác giả mở đầu bài viết với ý tưởng "sự nhỏ bé của con người trong vũ trụ rộng lớn", tác giả có thể nhắc lại ý tưởng đó ở phần kết luận. Tuy nhiên, tác giả có thể mở rộng chủ đề này bằng cách bổ sung các ý khác như "khi trí tuệ của con người ngày một phát triển thì vũ trụ như thu nhỏ lại".


 

            Cân nhắc việc liên kết lý luận của tác giả vào một bối cảnh khác. 

          Cách tốt nhất để viết phần kết luận cho bài viết là mở rộng các vấn đề liên quan đến cuộc thảo luận đến bối cảnh “bức tranh lớn hơn”. Điều này sẽ giúp người đọc biết cách áp dụng lý luận của tác giả vào chủ đề khác, mở rộng mục đích của bài viết.

3. Kỹ thuật viết kết luận

 

3.1. Thực hiện viết kết luận theo cấu trúc

          Cấu trúc phần kết luật của bài viết có thể có nhiều cách thể hiện khác nhau tùy theo từng tác giả, nhưng thường gặp nhất là bao gồm những ý chính sau:

·          Câu chủ để nhắc lại mục đích của bài viết.

·          Phát biểu lại ý tưởng chính của bài viết, tóm tắt các ý chính, kết luận đưa ra của từng nội dung chính của bài viết.

·          Tóm tắt ngắn gọn các bằng chứng chứng minh kết luận đưa ra của bài viết.

·          Chỉ ra một hoặc hai điểm chính kết luận đưa ra là chính xác.

·          Cuối cùng phát biểu kết luận rằng vấn đề của bài viết đã được giải quyết.

          Không có quy tắc cứng nhắc nào quy định phần kết luận phải dài bao nhiêu câu, tùy thuộc vào loại bài viết là luận văn hay bài báo, bài viết mà độ dài của phần kết luận có thể khác nhau. Có hai kiểu viết phần kết luận:

          - Phần kết luận thường là một đoạn văn, có độ dài 5-7 câu tương ứng với những ý chính trong cấu trúc trên, mỗi ý một câu đối với bài viết là bài báo ngắn. Đối với những bài báo thông thường (5-10trang), nếu phần kết luận ngắn hơn 5-7 câu thì tác giả chưa tóm tắt đủ luận điểm, còn nhiều hơn thì nghĩa là tác giả huyên thuyên hơi nhiều.

          - Phần kết luận có thể dài hơn 1 đoạn văn, nhiều hơn 5-7 câu, tuy nhiên vẫn có những ý chính theo cấu trúc trên.

 

3.2. Tóm gọn một số điểm chính 

          Hãy thử lấy câu đầu tiên của các đoạn phần thân bài (câu chủ đề) và viết lại thành một đoạn 2, 3 câu tóm tắt được những điểm chính. Việc này sẽ củng cố lập luận, nhắc người đọc về vấn đề được đề cập trong bài viết.

          Tránh tóm tắt luận điểm giống hệt phần trên. Người đọc đã đọc toàn bộ bài viết. Tác giả không nhất thiết phải nhắc lại từng luận điểm một.

          Một cách viết thường dùng là liên kết các ý chính đã tóm tắt ở trên thành những câu kép, dùng các từ nối để liên kết các luận điểm lại với nhau. Làm được như thế thì phần kết luận tránh được sự lặp lại, mặt khác lại nâng tầm kiến thức thành sự tổng hợp, có ý nghĩa hơn trong quá trình vận dụng kết quả nhận định trong bài viết.

3.3. Nêu bật luận điểm của bài viết ở phần kết luận 

          Tác giả nên viết luận điểm chính thức của bài viết vào phần kết luận. Nếu người đọc đọc tới phần kết luận nhưng vẫn không biết luận điểm của bài là gì, thì tác giả vẫn chưa thành công trong việc truyền đạt ý tưởng tới họ.

          Hãy tìm một cách mới mẻ để nhắc lại luận điểm, sử dụng cách viết khác chẳng hạn. Tái khẳng định luận điểm nhưng vẫn dùng cách diễn đạt trước đó sẽ làm người đọc nhàm chán và không cung cấp được cái nhìn mới trong lập luận.

3.4. Viết chủ đề theo giọng điệu tự tin

            Tự tin ở đây có nghĩa là sử dụng từ chính xác (trái ngược với những từ cũ), dựa trên các luận cứ chắc chắn từ nguồn khác và tin tưởng vào khả năng viết của bản thân. Đừng xin lỗi vì ý tưởng hay dùng quá nhiều ngôn ngữ nặng nề.

          Ví dụ, thay vì viết "Đó là lý do tôi nghĩ Abraham Lincoln là Tổng thống Mỹ xuất sắc nhất trong thế kỷ 19" hãy nói "Đó là lý do Abraham Lincoln trở thành Tổng thống Mỹ xuất sắc nhất trong thế kỷ 19". Người đọc đã biết tác giả viết Lincoln là Tổng thống xuất sắc nhất, và tác giả cũng tin như vậy. Do đó dùng từ "Tôi nghĩ " nghe có vẻ thiếu tự tin.

          Đừng bao giờ viết những câu "Tôi có thể không phải là chuyên gia" hoặc "Ít nhất thì đây là ý kiến của tôi" vì nó làm giảm độ tin tưởng của bài viết.

3.5. Kết luận với văn phong hoa mỹ

          Câu cuối cùng nên nhẹ nhàng, có chủ điểm và khiêu khích. Nói thì dễ hơn làm. Nhưng hãy cứ bắt đầu với việc minh họa chủ đề chính của bài viết. Tự hỏi bản thân Chủ đề bài viết của tôi là gì, tôi đang đề cập đến vấn đề gì? rồi từ đó khai triển dần.

          Hãy viết câu cuối với văn phong dí dỏm và một chút phóng khoáng về nội dung bài viết. Như vậy phần kết luận sẽ thu hút.

          Bộc lộ cảm xúc. Bài viết gần như rất hợp lý nhưng vẫn còn thiếu một chút cảm xúc. Đó là lý do tác giả nên đặt cảm xúc vào phần kết luận. Hãy làm đúng cách và nó sẽ giúp bài viết của tác giả có tâm hồn. Chỉ cần đảm bảo phần kết luận vẫn có giọng điệu phù hợp với phần còn lại của bài viết.

          Thêm phần kêu gọi hành động (không nên lạm dụng). Nếu bài viết với mục đích làm mọi người thay đổi, vậy việc bổ sung phần kêu gọi hành động sẽ là công cụ hữu ích để làm nổi bật phần nội dung. Nhưng đừng lạm dụng: Nếu dùng nhầm văn cảnh (một bài bình luận, hoặc lý luận) sẽ gây ra hậu quả khôn lường.

4. Nên và không nên sử dụng trong khi viết kết luận

 

4.1. Một số cụm từ không nên sử dụng để bắt đầu kết luận

Bắt đầu của một kết luận nên tránh các cụm từ “Kết luận lại”, “Tóm lại” hoặc “Để kết thúc”. Bởi vì chúng được sử dụng quá thường xuyên nên trở nên khô cứng và sáo rỗng.

4.2. Đừng chỉ tái khẳng định luận điểm

          Một vấn đề thường gặp ở phần kết luận là mọi người chỉ tái khẳng định luận điểm theo cách thông thường và tóm tắt lại những gì đã trình bày. Việc này không tạo lý do chính đáng để người đọc đọc phần kết luận vì họ đã biết trước những gì tác giả định viết.

          Thay vào đó, hãy đưa người đọc lên “một tầm cao mới” trong phần kết luận, hoặc cung cấp một số thông tin khác về ý tưởng ban đầu.

4.3. Không nên trích dẫn

          Thông thường tác giả không cần trích dẫn hay phân tích ở phần kết luận - hãy làm thế ở phần thân bài. Kết luận là phần đúc kết mọi thứ, không phải là phần giới thiệu thông tin mới.

4.4. Không dùng ngôn từ rườm rà

          Đừng dùng quá nhiều từ ngữ bay bổng trong kết luận. Tác giả muốn phần kết luận phải đọc được và cũng dễ hiểu, không cứng nhắc và nhàm chán. Tốt hơn nên dùng ngôn ngữ rõ ràng, súc tích thay vì viết vòng vo với quá nhiều từ dài dòng.

          Không dùng "Thứ nhất", "Thứ hai", "Thứ ba",...  để đánh dấu luận điểm. Hãy làm rõ tác giả đang nói về vấn đề gì và có bao nhiêu luận điểm.

4.5. Không thêm thông tin mới vào kết luận

          Giờ không phải lúc để giới thiệu ý tưởng hay nội dung mới. Điều này sẽ làm mất tập trung vào phần lập luận ban đầu và làm người đọc nhầm lẫn. Đừng làm mọi thứ rối tung, hãy viết về nội dung và luận điểm mà tác giả nghĩ tới sau khi tiến hành công đoạn phân tích cần thiết.Đừng tập trung vào một điểm nhỏ hay một vấn đề trong bài viết. 

          Phần kết luận không phải là nơi để nêu lại một chủ đề nhỏ của bài viết. Trên thực tế, đây là lúc để khái quát lại toàn bộ nội dung. Đảm bảo rằng bài viết đã tập trung vào luận điểm, chứ không đi lệch theo một hướng. Những lời này không phải cách hay để bắt đầu một sự chuyển đổi.

4.6. Luôn rà soát lại sau khi viết kết luận

          Luôn nhớ đọc lại bài viết sau khi hoàn thành. Kiểm tra lỗi ngữ pháp, chính tả và dấu câu. Có những trường hợp xảy ra, sau khi viết kết luận, mới phát hiện những sai sót, khiếm khuyết trong phần nội dung.

          Luôn đảm bảo phần thông tin liên quan ở phần kết luận. Đồng thời cũng nhắc lại luận điểm để người đọc hiểu được lý do tác giả chọn đề tài.

5. Ví dụ

5.1. Ví dụ viết kết luận tốt

          Khi viết kết luận của một bài báo khoa học với tiêu đề là "Một thuật toán và công cụ hiệu quả để phát hiện các lỗ hổng website nguy hiểm", tác giả viết đoạn kết luận bao gồm 5 câu (thứ tự câu được viết trong ngoặc) như sau:

          (1) Trong bài viết này, chúng tôi đã đề cập đến một số lỗ hổng bảo mật phổ biến trên web, chẳng hạn như SQL tiêm, XSS, BoF, FI, SI. (2) Qua đó, chúng tôi đề xuất một thuật toán và cải tiến để nâng cao hiệu quả phát hiện các lỗ hổng Website. (3) Các thuật toán được sử dụng để xây dựng công cụ quét là UTLWebScanner, thực hiện kiểm tra và so sánh với một số chương trình phần mềm thương mại có chức năng tương tự như Acunetix, Nessus và Arachni trên các bộ dữ liệu tiêu chuẩn. (4) Kết quả cho thấy công cụ của chúng tôi có tỷ lệ phát hiện lỗi cao trên các Website và có ưu điểm là thời gian quét nhanh hơn so với các công cụ chúng tôi sử dụng. (5) Để phát triển hơn nữa, chúng tôi sẽ phát triển cơ sở dữ liệu của phần mềm, áp dụng các kỹ thuật học máy để tăng hiệu suất quét và đưa ra dự đoán về vị trí của lỗ hổng để tập trung tìm kiếm.

          Chúng ta thấy kết cấu của đoạn kết luận trên như sau:

          - Câu (1) và (2): Phát biểu lại mục đích của bài báo là đề xuất một thuật toán cải tiến phát hiện lỗ hổng bảo mật, đồng thời cũng khái quát nêu một phần nội dung chính của bài báo đã triển khai là "đề cập đến một số lỗ hổng bảo mật phổ biến".

          - Câu (3) tóm tắt nội dung chính của phương pháp tiến hành trong bài báo, đây là kết quả chính của bài báo là xây dựng một công cụ quét.

          - Câu (4) khẳng định là kết quả nêu ở câu (3) là có độ tin cậy, đã chứng minh trong nội dung chính của bài báo.

          - Câu (5) Khẳng định và hướng mở rộng nâng tầm kết quả bài báo.

5.2. Ví dụ viết kết luận chưa tốt

          Khi viết kết luận của một luận văn thạc sĩ với tên đề tài là "Phân  tích  tự  động  các Website để  phát hiện lỗ  hổng tiêm nhiễm SQL  và XSS", tác giả luận văn đã viết kết luận của luận văn, tuy cơ bản đáp ứng được một số thông tin cần có của một kết luận nhưng cách viết chưa thực sự tốt, mang lại những ấn tượng cho người đọc. Cụ thể kết luận được viết như sau:

          "(1) Qua một thời gian nghiên cứu, được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, các đồng nghiệp, gia đình, đến nay luận văn “Phân tích tự động các Website để phát hiện lỗ hổng tiêm nhiễm SQL và XSS ” cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra:

          (2) + Nghiên cứu các lỗ hổng an ninh ứng dụng web, phương pháp khai thác lỗ hổng an ninh SQLi, XSS với từng loại CSDL, cách thức bypass việc lọc các ký tự đầu vào do người lập trình thiết lập.

          (3) + Xây dựng phần mềm có các chức năng: crawler, phát hiện và khai thác lỗ hổng an ninh SQLi và XSS, dò quét các file nhạy cảm, đường dẫn đăng nhập, brute force tài khoản đăng nhập FTP và RDP.

          (4) + Tiến hành xử lý song song, lập lịch có thể thực hiện dò quét nhiều mục tiêu đồng thời trên cả 05 chức năng là: crawler, dò quét SQLi, XSS, tìm file nhạy cảm, đường dẫn đăng nhập.

          (5) + Phần mềm này có khả năng phát hiện và khai thác tốt một số mục tiêu mà các phần mềm quét hiện tại không thực hiện được.

          (6) Hướng phát triển: Trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện các chức năng như: nghiên cứu bổ sung thêm các giải pháp bypass nâng cao trong khai thác lỗ hổng SQLi; giải pháp bypass ký tự metadata trong khai thác XSS, xây dựng bộ từ điển tương đối đầy đủ brute force tài khoản FTP, RDP; thử nghiệm với nhiều website đầu vào để có thể khai thác nhiều nhất các dạng SQLi và XSS. Ngoài ra,một số tính năng mới cũng sẽ được bổ sung thêm như crack mật khẩu, cài mã độc lên máy chủ, truy cập file hệ thống…, phát triển phần mềm thành công cụ kiểm tra lỗ hổng an ninh ứng dụng web tương đối hoàn thiện.".

          Nhận xét: căn cứ vào những cấu trúc và những điều nên và không nên trong khi viết kết luận, rõ ràng cách viết của tác giả là chưa được tốt. Chẳng hạn:

          - Câu (1) "Qua một thời gian..." mở đầu cho phần kết luận là không cần thiết, và nội dung của nó nằm ngoài phạm vi kết luận.

          - Câu (2) "Nghiên cứu...", kể về công việc nghiên cứu là không nên mà phải khẳng định kiến thức thu được đã trình bày sau khi nghiên cứu.

          - Câu (3) "Xây dựng...", kể về về việc xây dựng phần mềm là không nên mà phải khẳng định phần mềm đã xây dựng có khả năng gì...

          - Câu (4) nói về cách làm để xây dựng ra phần mềm ở (3), minh họa cho phần mềm ở (3) là tốt.

          - Câu (5) nói về minh chứng cho khẳng định phần mềm ở (3) là tốt.

          - Câu (6) hướng mở rộng của đề tài.

6. Kết luận

          Viết một kết luận hiệu quả trong khi viết tiểu luận, luận văn, bài báo, bài viết là hết sức cần thiết cho bất kỳ một tác giả nào, tuy nhiên không phải tác giả nào cũng có những kỹ năng, kỹ thuật để viết phần kết luận hiệu quả.  Để viết kết luận tốt cần chú ý những kỹ thuật, công việc cơ  bản như: đặt câu hỏi "vậy thì sao?" để hướng tới cách viết tốt nhất; đọc kỹ toàn bộ bài viết và viết tóm tắt những ý chính của toàn bộ bài viết; khẳng định những ý chính đưa ra là xác đáng, chính xác. Ngoài ra cũng nên tránh những lỗi cơ bản có thể mắc phải khi viết kết luận. Cấu trúc và cách viết đã được phân tích qua các ví dụ viết tốt và viết chưa tốt. Người đọc dễ dàng tiếp cận và vận dụng những kỹ năng, phương pháp viết kết luận đã được giới thiệu của bài viết. Để tăng thêm kỹ năng viết, người đọc nên kiểm tra lại, rà soát lại những kết luận đã viết của mình trong các bài viết trước đây so với những khuyến cáo trong bài viết này dễ thấy rằng việc viết đó đã hiệu quả hay chưa, từ đó sẽ cải thiện kiến thức và kỹ năng viết kết luận của độc giả.

Tài liệu tham khảo: https://www.wikihow.vn/Vi%E1%BA%BFt-K%E1%BA%BFt-lu%E1%BA%ADn-cho-B%C3%A0i-Ti%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADn


https://www.wikihow.com/Write-a-Conclusion-for-a-Research-Paper

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2020

Ví dụ về cách viết tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan vấn đề nghiên cứu

Tiếp theo bài viết "Tổng quan tình hình nghiên cứu, luận giải về mục tiêu và những nội dung nghiên cứu" (http://bitnetvn1.blogspot.com/2020/05/tong-quan-tinh-hinh-nghien-cuu-luan.html), 

Để minh họa cho kỹ thuật viết trong bài viết "Tổng quan tình hình nghiên cứu, luận giải về mục tiêu và những nội dung nghiên cứu", xin giới thiệu tới quý độc giả bài viết Tổng quan về tình hình nghiên cứu và luận giải mục tiêu của nghiên cứu của một đề tài cụ thể, với tên đề tài là "Nghiên cứu phát triển một số thuật toán phát hiện và phân loại phương tiện từ dữ liệu video giao thông". Bài viết tổng quan này đã vượt qua nhiều cấp độ review, được nhiều nhà khoa học góp ý, chỉnh sủa, tác giả đã sửa chữa và được các review đánh giá cao.

          Trong bài viết, tác giả đã viết thành 2 mục nội dung, bao gồm: nội dung 1 là "Một số phương pháp và công trình nghiên cứu liên quan"; nội dung 2 là hướng tiếp cận của nghiên cứu.
          Nội dug 1, đầu tiên tác giả giới thiệu khái quát về tình hình nghiên cứu, tiếp theo tác giả giới thiệu 4 công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan chặt chẽ với đề tài, cuối cùng tác giả giới thiệu 2 nhóm các giải pháp mà các nhà khoa học trên thế giới và Việt nam liên quan đến vấn đề phát hiện và phân loại phươn tiện giáo thông (nội dung trực tiếp của nghiên cứu). Tại mỗi công trình giới thiệu, tác giả giới thiệu cách làm của nhóm nghiên cứu, thành quả đạt được, đồng thời đánh giá những nhược nhiểm còn tồn tại liên quan đến vấn đề trực tiếp của nghiên cứu. Tại nội dung giới thiệu 2 phương pháp "phát hiện" và "phân loại" tác giả trình bày như một khảo sát đầy đủ nhiều công trình nghiên cứu, từ đó thấy được những khoảng trống cẩn cải tiến, cần cập nhật thêm các phương pháp mới để cải thiện độ chính xác, độ tin cậy và áp dụng cho những trường hợp cần giải quyết liên quan đến nghiên cứu.
          Nội dung 2,  tác giả nêu được khung làm việc, một số sơ đồ làm việc của nghiên cứu tổng thể cũng như nội dung chuyên sâu; tác giả cũng làm rõ những nội dung công việc liên quan đến đầu vào, đầu ra, nội dung khái quát quá trình làm việc; cuối cùng tác giả xác định rõ nhiệm vụ của nghiên cứu bao gồm 2 nhiệm vụ.
          Xin giới thiệu nguyên văn bài viết để các bạn tham khảo cách viết cho những nghiên cứu tương tự, tự rút ra những kinh nghiệm để kỹ thuật viết của mình được cải thiện hơn trong tương lai.

Để tài "Nghiên cứu phát triển một số thuật toán phát hiện và phân loại phương tiện từ dữ liệu video giao thông"


1. Một số phương pháp và công trình nghiên cứu liên quan

Trên thế giới, nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống giám sát giao thông tự động đã công bố và có những kết quả xác định. Ví dụ như hệ thống đếm xe ô tô của Clement Chun Cheong Pang và cộng sự [8]; hệ thống phát hiện và phân loại xe dựa trên video của nhóm Guohui Zhang, trường đại học Washington [12]; hệ thống tích hợp phát hiện, theo dõi và phân loại cho mục đích giám sát video thông minh của Yigithan Dedeoglu [26], năm 2004.
Ở Việt nam gần đây, cũng đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề này, một vài nghiên cứu đã triển khai ứng dụng hiệu quả trong công tác quản lý giao thông. Năm 2014 nhóm Phạm Hồng Quang, Tạ Tuấn Anh, xây dựng cấu trúc hệ thống giao thông thông minh và các quy chuẩn công nghệ thông tin, truyền thông, điều khiển áp dụng trong hệ thống giao thông thông minh tại Việt Nam thuộc đề tài KC01.14/11-15, Trung tâm Tin học và Tính Toán, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam. Năm 2014, Phạm Hồng Quang và cộng sự Công ty Cổ phần Phần mềm - Tự động hóa - Điều khiển đã Xây dựng mạng camera với hệ thống xử lý hình ảnh thông minh phục vụ điều khiển giao thông và giám sát an ninh thuộc đề tài KC03.DA06/11-15. Năm 2011, nhóm Trần Thanh Việt, Trần Công Chiến, Huỳnh Cao Tuấn, Nguyễn Hữu Nam, Đỗ Năng Toàn, Trần Hành đã công bố công trình nghiên cứu "Một kỹ thuật bám đối tượng và ứng dụng". Kỷ yếu hội thảo quốc gia "Những vấn đề nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin", lần thứ XIV, Đại học Cần Thơ.

1.1. Hệ thống điều khiển giao thông và giám sát an ninh

Nhóm nghiên cứu Phạm Hồng Quang (2014), Trung tâm Tin học và Tính Toán, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam cùng đồng nghiệp chủ trì Đề tài KC01.14/11-15 “Xây dựng cấu trúc hệ thống giao thông thông minh và các quy chuẩn công nghệ thông tin, truyền thông, điều khiển áp dụng trong hệ thống giao thông thông minh tại Việt Nam” [1] và Dự án SXTN mã số KC03.DA06/11-15 “Hoàn thiện tính năng hệ thống giám sát hình ảnh giao thông thông minh” [2] sử dụng các quá trình thu nhận dữ liệu từ Camera IP, truyền dẫn dữ liệu và xử lý ảnh, video thời gian thực áp dụng cho các hệ thống điều khiển giao thông và giám sát an ninh (Hình 1.9).
Quá trình xử lý ảnh được coi là bộ não xử lý của hệ thống. Yêu cầu của hệ thống phải xử lý được với dữ liệu hình ảnh có độ phân giải cao và chạy ở thời gian thực. Do đó quy trình xử lý hình ảnh phải được nghiên cứu và tối ưu hóa tại các bước để hệ thống cho ra kết quả đạt chất lượng như mục tiêu nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu năng hệ thống theo thời gian thực.
Các nhà khoa học đã thiết kế mạng lưới camera và quy trình xử lý ảnh chụp được, nhằm nhận dạng biển số và đo tốc độ, phân loại xe, đo chiều dài xe, phát hiện các hành vi khác của phương tiện như dừng đỗ, đi sai làn đường...
Hệ thống đã được triển khai áp dụng trong tại cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình. Có cả tất 22 camera đã được lắp đặt tại 11 vị trí khác nhau dọc tuyến đường cao tốc từ Km212+480 cho đến Km259+060. Tại mỗi vị trí lắp đặt, có 2 camera để giám sát theo 2 chiều đi khác nhau của đường cao tốc. Các camera được lắp đặt trên các khung giá long môn hoặc trên cột có tay vươn ở độ cao trên 6m.
Hình 1.9. Trạm nghiệp vụ xử lý phạt nguội vượt đèn đỏ ngã tư
Hệ thống xử lý ảnh đã đưa ra được ngày giờ và vị trí của các lượt đếm xe, biển số xe nhận dạng, tốc độ xe đo được, phân loại xe theo kích thước, cảnh báo sự kiện xe đi ngược chiều, xe dừng đỗ, xe đi vào đường cấm…từ nguồn hình ảnh video ghi được do các camera gửi về từ hiện trường.
Từ đây, các dữ liệu sẽ truyền về các cơ quan chức năng (cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông) để phát hiện các xe đi quá tốc độ, lấn đường...và có thể in biên bản phạt nguội.
Tuy nhiên, camera mới chỉ hoạt động tốt ở thời điểm ánh sáng mạnh, còn vào thời điểm ban đêm hoặc chiều tối, độ chính xác nhận dạng biển số và đếm lượng xe có bị giảm. Khi mức độ dày đặc phương tiện được gia tăng, việc căn cứ vào một số đặc tính kỹ thuật khác về kích thước khối hỗn hợp phương tiện, phân tách và nhận dạng vẫn là vấn đề vẫn cần nghiên cứu tiếp tục.

1.2. Hệ thống phát hiện và phân loại xe dựa trên video

Năm 2007, nhóm Guohui Zhang, trường đại học Washington [12], đã phát triển một hệ thống phát hiện và phân loại xe dựa trên video (Video-based Vehicle Detection and Classification- VVDC). Hệ thống được phát triển nhằm mục đích thu thập thông tin các xe tải từ camera quan sát tầm rộng. Một vài thuật toán dựa trên thị giác máy tính được phát triển hoặc áp dụng để tách ra ảnh nền từ một chuỗi video, phát hiện ra hình dáng xe tải, xác định và loại bỏ bóng của xe, cuối cùng tính toán chiều dài xe dựa trên điểm ảnh rồi phân loại xe. Sự cẩn thận được yêu cầu nghiêm ngặt để xử lý các tác động tiêu cực do sự tắc nghẽn theo chiều ngang và độ rung nhẹ của máy ảnh. Những điểm ảnh thể hiện độ dài xe được mô tả nhằm phân biệt sự khác nhau tương đối giữa loại xe dài và xe ngắn.
Cấu trúc của hệ thống VVDC bao gồm 6 mô-đun: quay video trực tiếp, người dùng nhập liệu, xuất ảnh nền, phát hiện xe tải, loại bỏ bóng và phân loại xe dựa vào độ dài xe. Hình 1.10 thề hiện rõ chu trình của hệ thống. Hệ thống VVDC lấy những bức ảnh video kỹ thuật số hay những tín hiệu video trực tiếp làm dữ liệu đầu vào. Phần ảnh nền sẽ được tách ra từ video đầu vào và được cập nhật thường xuyên sao cho thích hợp với sự thay đổi của môi trường. Một khi hệ thống bắt đầu thu thập dữ liệu, nó giám sát các vòng lặp ảo để phát hiện xe tải. Bước loại bỏ bóng được áp dụng với từng chiếc xe đã phát hiện trước khi tính toán độ dài xe dựa trên những điểm ảnh. Cuối cùng một chiếc xe được xếp vào loại dài hay ngắn dựa trên độ dài tính toán qua điểm ảnh.

Hình 1.10. Cấu trúc hệ thống phát hiện và phân loại xe dựa trên video

 Thuật toán thực hiện trong hệ thống VVDC được cài đặt bằng Microsoft Visual C#, có khả năng xử lý tất cả loạt ảnh được số hóa cũng như những tín hiệu video trực tiếp trong thời gian thực. Hệ thống được thử nghiệm tại ba địa điểm với sự khác nhau về giao thông cũng như điều kiện môi trường. Kết quả thu được là độ chính xác để phát hiện ra xe lên đến trên 97%, và tỷ lệ lỗi khi đếm xe tải thấp hơn 9% trong cả ba lần thử nghiệm. Điều này chứng tỏ rằng việc phát triển phương pháp xử lý hình ảnh trên video nhằm phát hiện và phân loại trong nghiên cứu này là một giải pháp thay thế khả thi cho việc thu thập dữ liệu các loại xe tải.
Đánh giá hướng tiếp cận theo phương pháp của Guohui Zhang:
- Phát hiện đối tượng chuyển động bằng phương pháp trừ nền (BSM), cụ thể Guohui Zhang đã sử dụng phương pháp trung bình các khung hình để mô hình nền.
- Phát hiện biên đối tượng, tính toán độ dài để phân loại xe ô tô tải.
- Kết quả chủ yếu là phát hiện được xe tải, xác định và phân hoạch được sự khác biệt giữa 2-3 xe con nối tiếp nhau và xe tải dài.
- Chưa tiếp cận và nói đến việc nhận dạng và đếm số lượng xe máy, xe thô sơ và người đi bộ. Tham số giao thông trong điều kiện riêng có của Việt Nam đa dạng và đông đúc các phương tiện thì tiếp cận theo phương pháp Guohui Zhang chưa đáp ứng được yêu cầu nhiều thông tin của phương tiện chuyển động.

1.3. Hệ thống giám sát giao thông dựa trên độ dài

Năm 2010, nhóm nghiên cứu của Chung-Cheng Chiu và cộng sự [7], đã phát triển một hệ thống giám sát giao thông tự động nhận dạng và theo dõi ô tô dựa trên kích thước. Nghiên cứu của Chung-Cheng Chiu phát triển một hệ thống giám sát giao thông thời gian thực, bao gồm phát hiện, nhận dạng và theo dõi các phương tiện từ các ảnh chụp trên đường (Hình 1.11). Các ô tô chuyển động có thể được tự động tách từ các ảnh chụp liên tiếp bằng phương pháp phân đoạn đối tượng chuyển động.
Phương pháp phân đoạn và nhận dạng sử dụng chiều dài, chiều rộng và kích thước mui xe để phân loại các phương tiện như xe tải lớn/nhỏ, xe con hoặc các phương tiện lớn khác. Các đối tượng được phân đoạn có thể được nhận dạng và đếm tương ứng với các đặc tính khác nhau của chúng, tùy theo các phương pháp nhận dạng và theo dõi được đề xuất.
Hệ thống đã được thử nghiệm trên các đoạn đường, sử dụng nhiều cảnh đường phức tạp, dưới ảnh hưởng của nhiều điều kiện thời tiết khác nhau, từ đó thảo luận và chứng minh độ chính xác, khả năng đáp ứng nhanh của phương pháp này. Kết quả xác định phát hiện các loại xe, từ xe tải to đến các xe con, xe chuyên dùng mini,... có độ chính xác từ 90% đến 98%.
Giai đoạn đầu tiên, phân đoạn các ô tô chuyển động, sử dụng BSM. Các đối tượng chuyển động được phát hiện bằng cách lấy ảnh đầu vào trừ đi ảnh nền.
Giai đoạn thứ hai, các ô tô chuyển động được gán nhãn các thành phần kết nối để thu được các khung có đường biên. Các ô tô trong khối được phát hiện và phân đoạn trong các ô biên. Phương pháp này hiệu quả đối với việc phát hiện và phân đoạn các loại ô tô khác nhau trong khối trên dựa trên đặc điểm hình dạng của chúng, có thể phân thành hai hoặc nhiều hơn hai khối ô tô ràng buộc nhau.

Hình 1.11. Sơ đồ của hệ thống giám sát giao thông tự động
Cuối cùng, các phương pháp nhận dạng và theo dõi được áp dụng để xử lý cho mỗi xe. Hệ thống đề xuất có thể phân loại thành 5 loại xe ô tô, phát hiện luồng giao thông và tốc độ trung bình theo thời gian thực.
Đánh giá hướng tiếp cận của Chung-Cheng Chiu:
- Hệ thống dùng BSM để phát hiện đối tượng chuyển động, sử dụng độ dài  của các đối tượng, bao gồm chiều dài, chiều rộng, độ dài một số thuộc tính của xe ô tô để tiến hành nhận dạng và phân loại. Kết quả đã phân loại được một số loại xe ô tô như xe con, xe tải, xe bán tải, xe tải.
- Hệ thống đã sử dụng một CSDL kích thước xe (chiều dài, chiều rộng) để phân biệt một xe ô tô và các ô tô dính khối với nhau, từ đó phân giải các khối nhiều hơn một ô tô. Trong một số trường hợp như rất nhiều xe dính khối, hoặc che khuất tầm nhìn một phần thì việc phân giải các khối bị thất bại.
- Tuy vậy, hệ thống mới đề cập đến vấn đề phương tiện giao thông là ô tô, chưa đề cập đến các phương tiện khác như xe máy, phương tiện thô sơ khác.

1.4. Hệ thống giám sát tích hợp phát hiện, theo dõi, phân loại

Trong nghiên cứu của Yigithan Dedeoglu [26], đã đề xuất một hệ thống tích hợp phát hiện, theo dõi và phân loại (Hình 1.12) cho mục đích giám sát video thông minh.

Hình 1.12. Cấu trúc hệ thống tích hợp phát hiện, phân loại, theo dõi đối tượng
Hệ thống phát hiện đối tượng chuyển động đề cập đến ba phương pháp cơ bản đó là: trừ nền, thống kê và chênh lệch thời gian.
Về phân loại đối tượng chuyển động, Yigithan Dedeoglu đề cập đến phương pháp phân loại dựa trên hình chiếu đối tượng.
Đầu tiên, giai đoạn offline, xây dựng một CSDL hình chiếu mẫu dựa trên việc vector hóa khoảng cách từ trọng tâm đối tượng tới biên của hình dạng đối tượng. Bước này được thực hiện theo phương pháp thủ công.
Tiếp theo, giai đoạn online, từ kết quả phát hiện đối tượng chuyển động, rút trích hình chiếu các đối tượng theo vector hóa khoảng cách từ trọng tâm đối tượng đến biên của hình dạng đối tượng. So sánh dấu hiệu khoảng cách của tập đối tượng phát hiện được với dấu hiệu khoảng cách có trong tập mẫu, thỏa mãn một ngưỡng xác định, qua đó kết luận thông tin của đối tượng cần xác định.
Hình 1.13. Cấu trúc hệ thống phát hiện đối tượng chuyển động
Yigithan Dedeoglu sử dụng phương pháp trừ nền, thống kê, chênh lệch tạm thời để phát hiện tiền cảnh, hình 1.13. Về phân loại, Yigithan Dedeoglu sử dụng một cơ sở dữ liệu chứa các dấu hiệu khoảng cách của các đối tượng mẫu cho việc đối sánh và nhận dạng (hình 1.14).
Đánh giá hướng tiếp cận của Yigithan Dedeoglu:
- Hệ thống nghiên cứu của Yigithan Dedeoglu đề cập ba chức năng chính của một hệ thống giám sát tự động từ video: phát hiện, phân loại và theo dõi.
- Về phát hiện đối tượng chuyển động, Yigithan Dedeoglu sử dụng dựa trên BSM, dựa trên mô hình Gauss hỗn hợp. Tuy nhiên chưa đề cập chi tiết đến sự tác động của ánh sáng thay đổi, đặc biệt là với các ứng dụng giám sát ngoài trời.
- Về phân loại đối tượng chuyển động, Yigithan Dedeoglu sử dụng dựa trên độ dài khoảng cách hình chiếu đối tượng. Cách tiếp cận này tỏ ra hiệu quả trong nhiều trường hợp các đối tượng phát hiện được có hình dạng phức tạp, tức là có hình dạng không thuộc các hình dạng cơ bản như: hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn... Tuy nhiên Yigithan Dedeoglu chưa đề cập đến các đặc trưng riêng của các phương tiện giao thông. Nếu phân tích riêng tới các đặc trưng của phương tiện giao thông như chiều dài, chiều rộng đối tượng, các đặc trưng đường viền, các đặc trưng đường biên ngang trên thân đối tượng,... hoặc chỉ số hóa các tập đối tượng so sánh, rút ngắn thời gian tính toán của hệ thống.
Hình 1.14. Lược đồ khái quát phân loại đối tượng dựa trên hình chiếu
(O là đối tượng, Dist là khoảng cách)

1.5. Phát hiện đối tượng

Bài toán phát hiện chuyển động đã được thế giới nghiên cứu từ rất sớm. Cho tới thời điểm hiện nay, đã có nhiều thuật toán phát hiện chuyển động được công bố [17]. Một số thuật toán mới được công bố trong những năm qua đã được chứng minh có độ chính xác tương đối cao, thời gian tính toán thấp và xử lý được môi trường biến động, nhiều đối tượng chuyển động. Theo các nghiên cứu trong [15], [17], [21], [23] bài toán phát hiện đối tượng được khái quát:
·        Đầu vào:
o   Các khung hình được trích chọn từ video
·        Đầu ra:
o   Ảnh nhị phân chứa các đối tượng chuyển động
o   Các thông số khác về ảnh: lưu lượng quang học, đường biên, đường biên, trọng tâm, khoảng cách.
·        Phương pháp tiếp cận:
o   Mô hình hóa nền (Background model)
o   Trừ nền (Background Subtraction)
o   Phương pháp thống kê (Statistical Methods)
o   Vi phân ảnh theo thời gian (Temporal Differencing)
o   Luồng quang học (Optical Flow)
o   Phát hiện bóng và thay đổi ánh sáng
o   Và một số phương pháp tiếp cận kết hợp khác    
Theo nghiên cứu trong [24], để giải quyết mô hình hóa nền, nhiều phương pháp đã được phát triển và được phân loại thành các loại sau:
Mô hình nền cơ bản: sử dụng giá trị trung bình hoặc bình quân hoặc phân tích lược đồ xám cho toàn thời gian.
Mô hình nền thống kê: sử dụng một Gauss đơn hoặc một hỗn hợp Gauss hoặc một tính toán mật độ lõi. Các biến thống kê được sử dụng để phân loại các điểm ảnh là điểm tiền cảnh hay là nền.
Mô hình nền mờ: sử dụng một giá trị trung bình mờ hoặc hỗn hợp mờ loại 2 của Gauss. Phát hiện tiền cảnh được sử dụng tích phân Sugeno hoặc tích phân Choquet.
Phân cụm nền: mỗi điểm ảnh trong khung hình có thể được phân cụm theo thời gian xuất hiện. Các điểm ảnh đang xem xét được xếp loại và ghép vào cụm theo một tiêu chí đặt ra. Cách tiếp cận phân cụm có sử dụng thuật toán K-mean hoặc sử dụng Codebook.
Mô hình nền mạng nơ ron: Mô hình nền được biểu diễn bằng trị trung bình của các hệ số của một mạng nơ ron được huấn luyện trên N khung hình không có nhiễu. Mạng huấn luyện như thế nào để phân loại mỗi điểm ảnh là nền hoặc tiền cảnh.
Mô hình nền Wavelet: Mô hình nền được định nghĩa trong vùng thời gian, sử dụng hệ số biến đổi wavelet rời rạc.
Ước tính nền: Nền được ước tính bằng cách sử dụng bộ lọc. Mỗi điểm ảnh của ảnh hiện tại lệch đáng kể so với giá trị dự đoán được khai báo là tiền cảnh. Bộ lọc này có thể là lọc Wiener, lọc Kalman hoặc lọc Tchebychev [53].
Cũng theo nghiên cứu trong [24], các phương pháp được tổng kết theo nhóm, năm, tác giả được tổng hợp và thể hiện trong bảng 1.1.
Các phương pháp tiếp cận mô hình nền trên (trong bảng 1.2) đều sử dụng phép trừ nền: Mô hình hóa nền, khởi tạo nền, duy trì nền, phát hiện tiền cảnh, chọn kích thước đặc trưng (điểm ảnh, khối hoặc cụm), chọn kiểu đặc trưng (đặc trưng màu sắc, đường biên, stereo, chuyển động và đường vân). Phát triển BSM tập trung vào các tình huống quan trọng trong dãy video: nhiễu ảnh làm chất lượng ảnh nguồn kém, khẩu độ nổi trên nền, các đối tượng chuyển động trên nền, chèn thêm vào nền, đối tượng đi bộ, đối tượng dừng lại và bóng. Khác nhau chính đến từ các nền động và sự thay đổi ánh sáng.
- Các nền động thường xuất hiện ở các cảnh ngoài trời. Ví dụ cây cối cử động, nước gợn sóng và bề mặt nước.
- Ánh sáng thay đổi xuất hiện trong các cảnh trong nhà và ngoài trời. Sự thay đổi ánh sáng có thể là dần dần hoặc đột ngột.
Bảng 1.1. Phân loại các phương pháp mô hình nền
Loại
Phương pháp, Tác giả (Năm xuất bản) [Tài liệu]
Mô hình nền cơ bản
Trung bình, Lee (2002); Trung vị, Mac Farlane, (1995)
Mô hình nền thống kê
Gauss đơn, Wren (1997); Hỗn hợp Gauss, Stauffer và Grimson (1999); Ước tính mật độ lõi, Elgammal (2000). 
Mô hình nền logic mờ
Giá trị trung bình chạy mờ, Sigari (2008); Hỗn hợp Gauss mờ loại 2n El Baf (2008).
Sự phân cụm nền
K trung bình (2003); CodeBook, Kim (2005).
Mô hình nền mạng nơ ron
Mạng nơ ron hồi quy tổng hợp, Culbrik (2006); Mạng nơ ron tự tổ chức, Maddalena (2007).
Mô hình nền Wavelet
Biến đổi Wavelet rời rạc, Biswas (2011)
Tính toán nền
Lọc Wiener, Toyama (1999); Lọc Kalman, Messelodi (2005); 
Bảng 1.1 trình bày phân loại các phương pháp mô hình nền [17], [24], chỉ ra cho thấy, mô hình nền thường sử dụng là phương pháp mô hình thống kê với ưu điểm giải quyết các tình huống quan trọng, mô hình này có nhiều phát triển gần đây, xoay quanh mô hình GMM và phát triển của nó.
Đánh giá về phương pháp phát hiện đối tượng:
Phương pháp phát hiện đối tượng sử dụng BSM là chủ yếu. Trong đó sử dụng phương pháp GMM được nhiều nghiên cứu phát triển và áp dụng. Các trọng số của các hệ số tham số mô hình được thực hiện qua phép lặp, với sự lựa chọn hệ số α trong phương trình lặp là rất cần thiết. Khi hệ số α được tham số hóa thì GMM trở thành GMM thích nghi. Việc lựa chọn α để GMM thích nghi với ánh sáng thay đổi phù hợp hơn trong các ứng dụng ngoài trời là cần thiết.

1.6. Phân loại đối tượng

Có nhiều cách phân loại đối tượng trong ảnh khác nhau. Phương pháp thủ công là sử dụng so sánh/đối sánh ảnh, tuy nhiên chi phí thời gian lớn và khó thực hiện. Các phương pháp thường được sử dụng là dựa trên một số đặc trưng của ảnh, đối tượng trong ảnh như lược đồ xám, màu sắc, hình dạng, đường viền, kết cấu vân,.... Các đặc trưng thông thường được sử dụng trong việc phân loại dựa trên hình dạng là hình bao, diện tích, hình chiếu, và gradient của các vùng đối tượng phát hiện được. Ví dụ nghiên cứu của Guohui Zhang dựa trên trọng tâm, biên và độ dài đối tượng [12].
Cách tiếp cận của A. J. Lipton (1999) [16] sử dụng độ dài đường biên hình chiếu của đối tượng và thông tin về diện tích để phân loại các đối tượng phát hiện được vào ba nhóm: người, xe, và các loại phương tiện khác. Phương pháp xuất phát từ giả thuyết người nhỏ hơn các phương tiện và có các hình dạng phức tạp.
Bảng 1.2. Kết quả sử dụng độ dài đường biên hình chiếu
Đối tượng phân loại
Tổng số
Không phân loại
% không phân loại được
Độ chính xác
Phương tiện giao thông
319
10.7%
2.5%
86.8%
Người
291
11.00%
6.2%
82.8%
Sai số
4




Theo bảng kết quả 1.2 thì độ chính xác còn khá thấp (86.8% đối với phương tiện và 82.8% đối với người). [16]
Phương pháp phân loại được phát triển bởi Collins [10] sử dụng các đặc trưng trực quan phụ thuộc của các đối tượng để huấn luyện một bộ lọc mạng nơron nhận biết bốn lớp đối tượng: người, nhóm người, xe và các loại khác. Đầu vào của mạng nơron là độ phân bố, diện tích và tỉ lệ bề ngoài của vùng đối tượng và độ phóng đại của camera. Giống như phương pháp trước, việc phân loại được thực hiện tại mỗi khung hình. Các kết quả được giữ trong lược đồ xám để cải thiện chất lượng phân loại theo sự phân biệt nhất quán thời gian.
Một phương pháp đơn giản hơn dựa trên sự tổng hợp của sự chênh lệch thời gian và đối sánh ảnh mẫu cho phép đạt hiệu quả cao trong việc theo dõi trong môi trường nhiễu và cho phép phân loại tốt. Do đó sử dụng bộ lọc Kalman hoặc các cách tiếp cận xác suất khác để giải quyết nhược điểm này.
          So khớp mẫu là cách phân loại sử dụng trong các phương pháp đo lường đối tượng tương tự như dựa trên việc so sánh hình dạng của đối tượng (được gán nhãn và chuẩn bị trước trong CSDL) với các vùng đối tượng được phát hiện trích chọn từ bản đồ điểm ảnh trên nền được. Quá trình phân loại đối tượng theo phương pháp này được chia thành hai bước.
        Bước chuẩn bị (Offline): Tạo CSDL mẫu của hình mẫu đối tượng bằng tay và gán nhãn đối tượng cho nó.
        Bước thực hiện trực tiếp (Online): Trong quá trình giám sát, trích chọn hình dạng của đối tượng trong mỗi khung hình và nhận dạng kiểu của nó bằng việc so sánh đặc tính dựa trên hình dạng đó với mẫu trong CSDL mẫu. Sau khi so sánh đối tượng với hình mẫu trong CSDL, tìm thấy hình dạng mẫu có khoảng cách tối thiểu so với đối tượng. Kiểu của đối tượng này được xác định là kiểu của đối tượng mong muốn phân loại. Trong bước này, kết quả của đối tượng theo dõi được sử dụng để đạt được thống nhất thời gian của kết quả phân loại.
        - Kỹ thuật được sử dụng trong phân loại đối tượng.
        - Các kỹ thuật so khớp mẫu so sánh các phần của ảnh với nhau.
        - Ảnh mẫu được sử dụng để nhận dạng các đối tượng tương tự trong ảnh nguồn.
        - Độ lệch chuẩn của ảnh mẫu so với ảnh gốc là đủ nhỏ, ảnh mẫu được sử dụng.
        - Tập mẫu thường được sử dụng để xác định các ký tự in, số, các đối tượng nhỏ và đơn lẻ, riêng rẽ khác.
Quá trình phù hợp mẫu chuyển ảnh mẫu tới tất cả các vị trí trong vùng ảnh rộng lớn và tính toán số chỉ mục được chỉ ra sự phù hợp mẫu tốt như thế nào so với vị trí đó. So khớp được thực hiện cơ bản là điểm so với điểm.
Hình chiếu của đối tượng trên ảnh là đường biên bao quanh đối tượng. Phân loại dựa trên hình chiếu chia thành hai bước:
- Bước 1 (offline): Tạo một mẫu CSDL của các hình chiếu đối tượng mẫu bằng cách thu thập thủ công ảnh các trường hợp, chuyển đổi biểu diễn và lưu trữ vào CSDL.
- Bước 2 (online): Trích rút hình chiếu của mỗi đối tượng phát hiện được trong mỗi khung hình và nhận ra loại của nó bằng cách so sánh hình chiếu dựa trên đặc trưng với các hình chiếu trong CSDL mẫu trong thời gian thực trong khi theo dõi. Sau khi so sánh đối tượng đó với đối tượng trong CSDL, một hình mẫu với khoảng cách nhỏ nhất được tìm thấy. Loại của đối tượng này được gán cho loại của đối tượng muốn phân loại. Trong bước này kết quả của bước theo dõi đối tượng được tận dụng để thu được các kết quả phân loại nhất quán theo thời gian.
Trích rút hình chiếu của đối tượng: Trong cả hai bước online và offline của thuật toán phân loại, các hình chiếu của các vùng đối tượng phát hiện được từ bản đồ điểm ảnh cận cảnh được trích rút bằng cách sử dụng một thuật toán theo vết đường biên. 
CSDL mẫu các hình chiếu: CSDL hình chiếu mẫu được tạo offline bằng cách trích rút một vài đường biên đối tượng từ các cảnh khác nhau. Do sơ đồ phân loại sử dụng sự giống nhau (sự tương đồng), các hình dạng của các đối tượng trong CSDL nên thể hiện các dáng điệu của các loại đối tượng khác nhau. Xem xét kiểu người, thêm các hình dạng người trong các tư thế khác nhau vào CSDL mẫu nhằm tăng khả năng của một đối tượng truy vấn của kiểu người được phân loại đúng. Ví dụ, nếu có tất cả hình người trong tư thế thẳng đứng, có thể không phân loại được một người đang ngồi trên ghế. Hoặc nếu các hình chiếu của ô tô được nhìn theo phương ngang từ camera, có thể sẽ phân loại sai các phương tiện chuyển động theo chiều dọc với góc nhìn của camera.
Trong bước phân loại, phương pháp không sử dụng hình chiếu trong định dạng thô, đúng hơn là so sánh các dấu hiệu khoảng cách của hình chiếu đã được chuyển đổi. Vì vậy, trong CSDL khuôn mẫu chỉ lưu trữ dấu hiệu khoảng cách của hình chiếu và thông tin tương ứng cho cả việc tính toán và lưu trữ sao cho hiệu quả.
Nhận xét về phương pháp phân loại đối tượng:
Có nhiều cách tiếp cận để phân loại đối tượng như dựa vào mô hình hình dạng đối tượng, trên vùng ảnh, đường viền, đặc trưng kết cấu, xác suất. Tuy nhiên phương pháp dựa vào hình dạng và đường viền đối tượng được các nhà khoa học nghiên cứu và triển khai trên nhiều ứng dụng.
Để áp dụng phương pháp phân loại dựa trên hình dạng và đường viền, các ứng dụng thường chia thành 2 pha: pha thứ nhất, sưu tập và tạo mẫu so sánh; pha thứ hai áp dụng phép đối sánh ảnh dựa trên những tập đối tượng cần phân loại kết hợp với tập dữ liệu mẫu dựa trên một tập luật đối sánh tương ứng. Việc biến đổi hình dạng hình học của biên đối tượng cũng như đường viền thành vector hóa đại số mang lại khả năng nhận dạng và phân loại đối tượng.
Nói tóm lại, bài toán phân loại phương tiện giao thông thông qua hình ảnh/video được đặt ra là:
·     Đầu vào:
o  Khung hình chứa đối tượng chuyển động đã được bước phát hiện xử lý, thông thường là những bức ảnh nhị phân.
o  Các thông số về ảnh: lưu lượng quang học, đường biên, trọng tâm,...
·     Đầu ra:
o  Các loại đối tượng có trong khung hình
·     Phương pháp tiếp cận:
o  Phân loại dựa trên hình dạng  
o  Phân loại dựa trên chuyển động.
o  Tổng hợp giữa hình dạng và chuyển động.
o  Dựa trên vùng ảnh.
o  Dựa trên đặc tính màu sắc
o  Dựa trên thao tác đường viền 
o  Dựa trên đặc trưng kết cấu.
o  Dựa trên xác suất.

2. Hướng tiếp cận nghiên cứu

2.1. Sơ đồ khái quát hướng tiếp cận xử lý bài toán

Hạt nhân của hầu hết các phương pháp tiếp cận trước đây tập trung vào ba khối chính: Phát hiện, phân loại và theo dõi. Từ kết quả của bài toán phát hiện, theo dõi và phân loại sẽ thực hiện nhận diện và trích chọn các thông tin cần quan tâm đưa ra màn hình quan sát hoặc lưu trữ vào CSDL, phục vụ các nhu cầu của con người.
Thu nhận video liên quan đến: 
- Vị trí đặt camera, bao gồm độ cao so với mặt đường, khoảng cách từ camera đến vùng cần đếm xe hay còn gọi là ROI.
- Hướng quay, bao gồm việc xác định hướng quay đối tượng tham gia giao thông từ hướng nào? Trực diện theo hướng đang đến, theo hướng đang di chuyển ra xa, quay ngang sườn xe theo cả hai hướng di chuyển,...
- Góc quay, luồng ảnh quay tạo góc với phương nằm ngang chứa đối tượng chuyển động góc bao nhiêu độ. Máy quay đặt cố định hay di động,...
Cách lắp đặt camera ảnh hướng nhiều tới các phương pháp tiếp cận, giải quyết xử lý ở các bước tiếp theo. Vị trí đặt máy ảnh hưởng tới kích thước đối tượng thu được trong video. Hướng quay ảnh hưởng đến hình dạng đối tượng trong video, bởi vì các đối tượng trong video giao thông (chủ yếu là xe) sẽ có hình dạng phía trước và phía sau khác nhau. Góc quay cũng ảnh hưởng tới hình dạng đối tượng.
Để phù hợp với các hệ thống giám sát giao thông bằng camera, ta chỉ xét trường hợp máy quay đặt cố định, hướng quay thẳng hướng với đối tượng chuyển động. Khoảng cách khu vực quan tâm tới máy quay 40 đến 100 mét, góc quay chếch phương nằm ngang 30o

Hình 1.15. Cấu trúc khái quát hệ thống nhận dạng đối tượng chuyển động
Trích chọn khung hình. Đặc tính cơ bản của video là cấu thành bằng sự kết hợp các khung hình liên tiếp. Do vậy, từ dữ liệu video (trực tiếp từ máy quay camera IP hoặc từ file video), để lấy ảnh vào phân tích, hệ thống phải tách thành các khung hình (chứa ảnh đối tượng) để tiến hành trừ nền, phát hiện đối tượng,...
Mô hình nền: Cách tốt nhất để thu nhận nền là lưu trữ ảnh nền khi không có bất kỳ đối tượng chuyển động nào, nhưng trong môi trường thực thì khó có thể như vậy. Hơn nữa, nó cũng luôn luôn thay đổi dưới điều kiện thực tế như thay đổi ánh sáng, các đối tượng đến hoặc rời khỏi cảnh...Nhiều phương pháp mô hình hóa nền đã được nghiên cứu và triển khai.
Phát hiện đối tượng, Theo dõi đối tượng, Phân loại đối tượng là những khối xử lý chính của hệ thống. Tuy nhiên trong nhiều phương pháp sự kế thừa và phối hợp giữa những khối này là liên quan chặt chẽ với nhau. Nội dung và những nghiên cứu liên quan đến những vấn đề này sẽ được tiếp tục trình bày trong luận án ở những phần tiếp theo.
Thông tin đối tượng là khâu cuối cùng xử lý đầu ra của bài toán. Kết quả có thể lưu trữ vào CSDL hoặc ra màn hình phục vụ quan sát.

2.2. Xác định vùng quan tâm và nhiệm vụ nghiên cứu

Với phân tích đặc trưng phương tiện giao thông, video giao thông, việc tiếp cận phát hiện và phân loại dựa trên màu sắc là khó thành công.
Sơ đồ cấu trúc các hướng tiếp cận trong giải quyết bài toán phát hiện và phân loại phương tiện giao thông từ video được thể hiện qua hình 1.16.











Hình 1.16. Sơ đồ xác định vùng nghiên cứu
Về phân loại phương tiện dựa trên ảnh/video, cơ bản thực hiện trên hai pha: pha huấn luyện và pha nhận dạng.
Pha huấn luyện, tìm ra các đối tượng mẫu có trên thực tế, trích chọn ra và xây dựng đặc trưng mẫu dùng cho việc nhận dạng và phân loại. Đối tượng mẫu và đặc trưng mẫu là những thành phần mà tùy theo từng loại đối tượng, từng yêu cầu bài toán mà có thể lựa chọn theo nhiều cách khác nhau, thường dựa vào những phân tích và kinh nghiệm.
Đối với bài toán phân loại phương tiện chuyển động từ video, để có được cơ sở dữ liệu đối sánh cần chọn ảnh các phương tiện mẫu cần phân loại phù hợp với các điều kiện về độ phân giải, kích thước, từ đó trích chọn các đặc trưng như độ dài, chiều cao, chu vi, số đỉnh, góc,... để lưu vào kho cơ sở dữ liệu.
Pha nhận dạng và phân loại, ở đây từ dữ liệu video, trích chọn ra các khung hình, dựa trên các khung hình phát hiện đối tượng chuyển động. Từ các đối tượng phát hiện được, rút trích ra các đặc trưng (tương tự như pha huấn luyện), so sánh với các đặc trưng đã huấn luyện từ trước để kết luận về đối tượng.
Đối với bài toán phát hiện và phân loại phương tiện từ Video, thu nhận các khung hình, thông qua các khung hình sử dụng các thuật toán để phát hiện phương tiện chuyển động (ô tô, xe máy, xe đạp), tức là kết luận có đối tượng chuyển động hay không. Rút trích các đặc trưng của đối tượng như các đặc trưng về hình dạng, kích thước, đường viền. So sánh các đặc trưng với các đặc trưng mẫu chứa trong kho cơ sở dư liệu để kết luận thông tin về đối tượng.
Trên cơ sở xác định vùng nghiên cứu trên, để giải quyết vấn đề phát hiện và phân loại phương tiện từ dữ liệu video giao thông cần thực hiện hai nhiệm vụ chính (Hình 1.17).
Phân loại đối tượng dựa trên đặc trưng hình dạng và độ dài. Trước hết là trích chọn các đặc trưng hình dạng và độ dài của phương tiện giao thông. Xây dựng CSDL cho việc nhận dạng và phân loại. Sự kết hợp các phương pháp nhận dạng theo hình dạng và độ dài tạo ra khả năng phân loại nhanh. 
Phân loại đối tượng dựa trên đặc trưng đường viền. Việc biểu diễn đường viền theo phương pháp nào đó để so sánh, phân tích đường viền dễ dàng và chính xác, thông qua đó để phân loại đối tượng chính xác hơn.  
Text Box: Phát hiện và phân loại phương tiện từ video giao thông
Hình 1.17. Hướng tiếp cận xử lý bài toán
Nhiệm vụ 1. Phát hiện đối tượng chuyển động. Sử dụng phương pháp GMM, xem xét thêm một số trường hợp sự tác động của ánh sáng để GMM thích nghi nhanh với sự thay đổi ánh sáng là hoàn toàn có thể, qua đó cải thiện tốc độ tính toán.
Nhiệm vụ 2. Phân loại đối tượng chuyển động. Sử dụng kích thước và véc tơ khoảng cách để phân loại. Dựa vào phân tích đường viền thông qua các đặc trưng như chu vi, số đỉnh để phân loại.